Thứ Tư, 13 tháng 10, 2010

Me Fatima


Ngày 13.10.1917, tại Fatima: Mặt trời quay, một phép lạ vĩ đại chưa từng xảy ra! – Không thể nào phủ nhận được!

Thứ tư, 13 Tháng 10 2010 03:55 .

Chắc hẳn khi nhắc đến tên Fatima , các bạn đã nghe nói đến phép lạ mặt trời quay?

Nhưng các bạn có biết rằng qua cách thức phép lạ xảy ra, thì đây hẳn là một phép lạ vĩ đai nhất chưa tùng xảy ra trong lịch sử Giáo Hội?

Hay: Phải chăng đây là một chuyện thêm thắt và bịa đặt thái quá?

Hy vọng qua những dòng sau đây, các bạn sẽ có được sự nhận định chính xác hơn.

Để mọi người tin

Vào ngày 13.10.1917, tại ngọn đồi Cova da Iria ở Fatima, Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa đã hiện ra lần thứ sáu với ba trẻ chăn chiên: Lucia (10 tuổi), Francisco (7 tuổi) và Jacinta (6 tuổi). Nhưng nhiều người cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra chỉ là trò hề, do ba đứa trẻ nhà quê bịa đặt ra để gạt gẫm người khác hay do thủ đoạn của những người lớn đứng phía sau giật dây để nhắm tới một mục đích chính trị hay kinh tế nào đó. Chính bà mẹ Lucia cũng hoàn toàn nghi ngờ, đến nỗi bà còn đánh đập con gái mình vì cho rằng Lucia nói dối.

Để đánh tan sự nghi ngờ và bất tín của thiên hạ, nhất là để mọi người tin nhận biến cố Fgatima là sự thật, trong lần hiện ra vào ngày 13.07.1917, Vị Thiên Nữ đã hứa là vào ngày 13.10.1917 sẽ có một phép lạ vĩ đại xảy ra trước sự chứng kiến của mọi người. Lời hứa này còn được Vị Thiên Nữ nhắc lại vào ngày 19.08. và vào ngày 13.09.1917.

Vâng, trong lần hiện ra vào ngày 13.09. 1917, sự thông báo của Vị Thiên Nữ về một phép lạ vĩ đại sẽ xảy ra vào ngày 13 thang 10 tới, cũng được ba trẻ nói cho mọi người hay. Vì thế đúng vào ngày đó, đã có khoảng từ 50 đến 70.000 người tấp nập đổ xô về Fatima, trong số họ, gồm có đủ mọi hạng người, từ các tín hữu, những người tò mò, cho đến cả những người nghi ngờ chống đối.

Nhiều phóng viên của những tờ báo lớn ở Bồ Đào Nha cũng đều có mặt trong lần hiện ra hôm đó. Nhưng có lẽ những phóng viên này chỉ muốn đến để để soạn sửa cho bản tin ăn khách sẽ được đăng ở trang nhất trên các tờ báo của họ trong số ra ngày mai với tít lớn: «Sự thất bại ê chề của hiện tượng Fatima», hay: «Nhân loại văn minh của thế kỷ XX vẫn còn bị những chuyện hoang đường lừa đảo », kèm theo những bài bình luận đầy giọng mỉa mai châm biếm tôn giáo, nếu như phép lạ đã được loan báo trước, không xảy ra.

Nhưng vào ngày 13.10.1917, mọi sự đã xảy ra hoàn toàn khác với ý nghĩ của những nhà báo này: Phép lạ cả thể đã thực sự xảy ra; mặt trời đã quay cuồng trước sự chứng kiến của tất cả mọi người có mặt hôm đó.

Một vị giáo sư là chứng nhân hiện tượng lạ lùng hôm đó

Ở đây, chúng ta hãy nghe tiến sĩ José Maria Proença de Almeida Garrett, giáo sư môn khoa học tự nhiên đại học Coimbra , kể lại những gì ông đã quan sát thấy ở Fatima hôm đó. Vì ông là một giáo sư, nên lời tường trình của ông rất khả tín và gây được sự chú ý của mọi người:

«Hôm đó, tôi đến nơi vào giữa trưa. Cơn mưa tầm tã từ buổi sáng sớm chẳng những không ngớt, mà bây giờ còn bị những trận gió dữ dội thổi ào tới tấp như muốn làm tràn ngập cả cảnh vật. (…) Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều. Trong vài giây lát trước đó, mặt trời còn bị che khuất sau đám mây dày đặc, bổng chốc nó chiếu sáng qua đám mây. Mọi cặp mắt đều hướng nhìn về phía mặt trời như bị một sức mạnh nam châm vô hình nào đó cuốn hút vậy. Chính tôi cũng nhìn thẳng vào mặt trời. Nó trông giống như một cái đĩa sáng rực rỡ, chói lọi nhưng không làm lóa mắt. (…) Nhưng mặt trời vào lúc bấy giờ không làm lóa mặt, không giống như khi chúng ta nhìn nó bị che khuất sau một đám mây. Không, bầu trời lúc bấy giờ hoàn toàn trong sáng, chứ không hề có một vẩn mây nào che khuất mặt trời cả; nó xuất hiện rõ ràng giữa bầu trời. Cái đĩa sáng chói đầy mầu sắc rực rỡ đó không đứng yên, nhưng chuyển động rất nhanh. Và đó không phải là những tia sáng lung linh phát ra từ các ngôi sao. Cái đĩa lửa quay tròn với một tốc độ nhanh khủng khiếp, khiến từ đám đông những người có mặt hôm đó bổng chốc vang lên những tiếng kêu la sợ hãi thất thanh. Mặt trời cứ tiếp tục quay tròn như thế cùng với tốc độ nhanh khủng khiếp tương tự, đồng thời, nó tách ra khỏi không trung và tiến đến gần mặt đất với mầu đỏ máu, mọi cảnh vật như đang sắp sửa bị nghiền nát dưới độ quay nhanh khủng khiếp của vòng lửa không lồ. (…) Tất cả những hiện tượng này tôi đã bình tĩnh quan sát và trình bày ra đây sự nhận xét khách quan của mình, chứ không do bất cứ sự xúc động nào chi phối cả. Tôi cũng hoàn toàn chờ đợi sự nhận xét và quan điểm của kẻ khác.» (1).

Phải chăng đám đông bị thôi miên ?

Về phép lạ mặt trời quay, có lẽ sẽ có người sẽ cắt nghĩa ngay rằng vì đã được báo từ trước, và đám đông đã đến Fatima với một tâm trạng quá nóng lòng hồi hộp chờ đợi. Vì thế, khi có một hiện tượng bất bình thường nào đó nơi mặt trời xảy ra, họ đã vội cho là phép lạ, và rồi sự công nhận đó cứ lan tỏa ra nhanh trong đám đông một cách vô ý thức như một dòng điện vậy, tương tự như phản ứng của các khán giả ngồi xem đá banh trong một sân vận động khi có cầu thủ đá thủng lưới đối phương.

Nhưng sự cắt nghĩa đó sẽ hoàn toàn trở nên buồn cười và không thể đứng vững được khi sự kiện cụ thể xảy ra trong thực tế, đó là người ta có thể quan sát và nhìn thấy được phép lạ mặt trời quay trong chu vi rộng 1550 cây số vuông.

Rất nhiều nhân chứng đã từ xa chứng kiến được phép lạ mặt trời, lại là những người vô tín ngưỡng, những người đã từng phê bình và cười chê những khách đến Fatima hôm đó như những kẻ «nhẹ dạ cả tin».

Trong số những người quan sát được phép lạ mặt trời từ xa, chứ không có mặt tại Fatima, đã cho ý kiến như sau:

Linh mục Joaquim Lourenco, hiện là nhà giáo luật học của giáo phận Leiria, nhưng vào lúc xảy ra phép lạ, hãy còn là một học trò và cùng người anh và các bạn bè của ngài đang có mặt tại làng Alburitel, cách Fatima vào khoảng 54km. Tất cả đều tưởng ngày tận thế đã đến.

Cha Lourenco tường thuật lại như sau:

«Tôi nghĩ rằng tôi không đủ khả năng để diễn tả lại những gì chính tôi đã chứng kiến xưa kia. Tôi nhìn như dán mắt vào mặt trời để quan sát: Mặt trời có màu nhợt, đến nỗi tôi có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị đau mắt chút nào cả. Mặt trời vào lúc bấy giờ, trông tựa như một quả bóng bằng tuyết, quay chung quanh cái trục của mình, và bổng chốc, nó như rơi ra khỏi bầu trời, quay lượn ngoằn ngoèo và tiến sát gần mặt đất với vẻ đầy đe dọa. Vì quá sợ hãi, tôi đã chạy nấp vào phía sau người lớn đang đứng khóc lóc vì tưởng rằng thế giới trong giây lát nữa sẽ bị chấm tận. Bên ngoài ngôi trường làng của chúng tôi, có một đám đông đang tụ họp lại; còn đám học trò chúng tôi thì xô nhau chạy ra khỏi lớp học và đi xuống đường. Khi phép lạ bắt đầu xảy ra thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu la của những người đang đứng đầy ngoài đường phía trước cổng trường, đàn ông cũng như đàn bà…

Lúc bấy giờ có một người vô thần, mà cả buổi sáng hôm đó cứ rêu rao lên tiếng chê bai cười nhạo những người tới Fatima là «những kẻ ngu ngốc», cốt chỉ để xem một đứa bé gái nhà quê. Nhưng trong suốt lúc xảy ra phép lạ thì ông ta đứng đờ ra như một người bị bất toại cả thân mình và chỉ đưa mắt cắm chặt vào mặt trời. Ông ta bắt đầu run rẩy cả mình mẩy lẫn chân tay, rồi quỳ xuống trên bùn lầy và giơ hai tay lên trời cầu xin Chúa tha thứ cho mình.» (2).

Một hiện tượng không thể cắt nghĩa được

Qua sự trình bày của tất cả mọi nhân chứng có mắt hôm đó khi xảy ra phép lạ mặt trời quay, người ta có thể nói được rằng phép lạ cả thể đó có bốn đặc điểm khác nhau :

1. Đám đông đã có thể nhìn thẳng vào một vật sáng chói lọi, mà họ cho là mặt trời, chứ họ không cần phải đeo kính nhâm hay bất cứ phương tiện bảo vệ mắt nào cả.

2. Vừng sáng chói lọi đó đã tỏa ra những tia sáng mầu sắc rực rỡ xuống trên mặt đất, đến nỗi mọi cảnh vật đều bị nhuộm mầu hết.

3. Vừng sáng chói lọi rực rỡ đó rơi xuống trên đám đông.

4. Chỉ trong vòng mấy phút mà cả vùng đất Fatima đang bùn lầy dơ bẩn bổng chốc trở thành khô cứng, và áo quần của đám đông trên dưới 60 ngàn người từng bị cơn mưa cả buổi sáng làm ướt đẫm, cũng hoàn toàn khô ráo bình thường.

Đúng vậy, chỉ trong vòng khoảng 10 phút đồng hồ mà cả mặt đất lầy lội cũng như quần áo ướt át của đám đông bổng chốc khô ráo hoàn toàn. Đó quả là một điều đã minh nhiên nói lên rằng ngoài phép lạ siêu nhiên ra, không thể tìm ra được lời giải thích theo phương diện tự nhiên được.

Nỗi lo lắng của Mẹ Maria cho con cái loài người

Nếu thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã từng ước ao là khi được về trên trời, thánh nữ sẽ trở thành tình yêu đầy sáng tạo để cứu giúp mọi người, thì nay Fatima và nhất là phép lạ mặt trời quay là một bằng chứng hùng hồn của tình yêu đầy sáng tạo của Mẹ Maria đối với con cái loài người chúng ta, dĩ nhiên, trên hết là bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa.

Bởi vậy, chúng ta hãy nghiêm chỉnh đón nhận dấu chỉ của sự lo lắng của Mẹ Thiên Chúa; đúng như lời chị Lucia đã cảnh báo: «Fatima luôn luôn mang tính cách thời sự cao điểm của nó.» Bởi vì, đối với Thiên Chúa, thời giờ là vô tận; nhưng đối với phàm nhân chúng ta, thời giờ luôn có giới hạn của nó. Và giới hạn đó không ai biết được dài ngắn, lâu mau. Vì chưa bao giờ có ai biết được mình sẽ được sinh ra lúc nào, và cũng rất ít ai biết được mình sẽ chết lúc nào. Ngày tận cùng của mỗi người sẽ xảy đến một cách bất chợt, không ngờ trước được, tương tự như một kẻ trộm vậy (x. Mt 24,37-44). Do đó, Đức Giêsu đã căn dặn chúng ta: «Các con phải canh chừng, phải tỉnh thức, vì các con không biết khi nào thời ấy đến!» (Mc 13,33).

Nhưng dĩ nhiên, sự tỉnh thức và canh chừng mà Chúa nói đây không có nghĩa là sự ngồi chờ cách thụ động, vô vi; nhưng là một sự tỉnh thức đầy sáng tạo, nghĩa là một sự tỉnh thức chờ đợi đầy tính năng động mà Mẹ Maria đã chỉ cho chúng ta tại Fatima cách đây đúng 90 năm về trước. Đó là:

Mỗi người phải ăn năn sám hối và cải thiện cuộc sống cá nhân của mình;

• Hằng ngày, hãy siêng năng và sốt sắng lần hạt Mân Côi;

• Tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, như Chúa muốn.


Nếu được thế, thế giới sẽ được hòa bình, nhiều dân tộc sẽ tránh khỏi cảnh bị diệt vong và nhiều linh hồn sẽ không bị trầm luân trong hỏa ngục đời đời.

_________________________

1. Trích trong : Fonseca, «Maria spricht zur Welt», Fatimas Geheimnis und weltgeschichtliche Sendung, Prof. Dr. L.Gonzaga da Fonseca. Paulusverlag Freiburg Schweiz,98/99.

2. Trích trong : «Meet the Witnesses», John Haffert, World Apostolate of Fatima, 64. Lm. Nguyễn Hữu Thy

Linh dao Giesu Kito !

Đạt được tình bạn với Chúa Giêsu là sống hạnh phúc!
Chủ nhật, 10 Tháng 10 2010 02:19 .

Hãy hiểu biết Kinh Thánh, yêu mến Phụng Vụ và sống các khía cạnh đức tin một cách sâu đậm hơn để đạt được tình bạn với Chúa Giêsu là sống hạnh phúc.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khích lệ 30.000 tín hữu và du khách năm châu tham dự buổi tiếp tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 6-10-2010.

Trong bài huấn dụ, Đức Thánh Cha đã giới thiệu gương mặt thánh nữ Gertrude Cả, nữ tu người Đức, sống vào hậu bán thế kỷ XIII tại tu viện biển đức Helfta, nơi đã nảy sinh ra vài kiệt tác của nền văn chương tôn giáo nữ giới latinh-đức.

Đức Thánh Cha giới thiệu gương mặt của thánh nữ Gertrude Cả như sau:

“Thuộc thế giới ấy, có Gertrude, một trong những nhà thần bí nổi tiếng nhất, phụ nữ duy nhất của nước Đức được gọi là ”Cả”, vì tầm cỡ văn hóa và tin mừng trong cuộc đời của chị. Với cuộc sống và tư tưởng của mình chị đã ghi khắc một cách đặc biệt dấu ấn trên nền tu đức kitô. Đó là môt phụ nữ đặc biệt, có các tài khéo tự nhiên và các ơn thánh ngoại thường, một đức khiêm nhường thẳm sâu và lòng nhiệt thành nồng cháy đối với ơn cứu rỗi của tha nhân, kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa trong sự chiêm niệm và sẵn sàng cứu giúp những người thiếu thốn.

Thánh nữ Gertrude Cả sinh ngày mùng 6 tháng giêng năm 1256, đúng ngày lễ Hiển Linh, nhưng không ai biết gì về cha mẹ và nơi sinh của chị. Chỉ biết rằng khi lên 5 tuổi, Gertrude được gửi vào học trường nội trú do các nữ tu biển đức điều hành, và được giao cho thánh Mathilde thành Hackeborn săn sóc. Gertrude sống các chặng ý nghĩa nhất đời mình tại đây.

Được thánh Mathilde dậy dỗ giáo dục, trong tương quan với nữ tu Mathilde thành Magdeburg và dưới sự chăm sóc hiền mầu êm dịu và đòi hỏi của viện mẫu Gertrude, thánh nữ kín múc được từ ba phụ nữ ấy các kho tàng kinh nghiệm và khôn ngoan. Chị diễn tả sự phong phú tu đức không chỉ của thế giới đan tu, mà nhất là của thế giới kinh thánh, phụng vụ, giáo phụ và biển đức nữa, với dấu ấn rất cá biệt và sự thông truyền hữu hiệu.

Gertrude đã là một nữ sinh ngoại thường, ưa thích hiểu biết, kiên trì và hăng say học hành, ham mê văn chương, âm nhạc, thánh ca, nghệ thuật thủ công, nên đạt các thành quả vượt sự chờ mong.

Chị có cá tính mạnh mẽ, cương quyết, và dễ bị khích động. Chị thường cho mình là thiếu sót và thừa nhận các khuyết điểm và khiêm tốn xin lỗi. Chị thường khiêm tốn xin lời khuyên và lời cầu nguyện cho ơn hoán cải của mình. Có những khuyết điểm sẽ theo chị cho tới chết, khiến cho nhiều người ngạc nhiên tự hỏi làm sao Thiên Chúa lại yêu thương chị một cách đặc biệt như vậy.”

Tiếp tục bài huấn dụ, Đức Thánh Cha nói:

“Từ chỗ là nữ sinh, Gertrude thánh hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa trong đời sống đan tu, và trong 20 năm trời, đã không xảy ra chuyện gì đặc biệt. Chị tiếp tục trau dồi văn hóa trong mọi chiều kích khác nhau. Nhưng vào Mùa Vọng năm 1280, chị bắt đầu cảm thấy chán ghét mọi thứ đó, và nhận ra sự phù vân của chúng.

Ngày 27 tháng giêng năm 1281, vào giờ Kinh Tối, Chúa soi sáng các tối tăm của chị. Với sự dịu ngọt và êm ái, Chúa trấn an nỗi âu lo của chị, và ban ơn giúp chị đánh đổ ngọn tháp phù vân và tò mò, mà chị đã tìm cách xây cao với lòng kiêu căng. Chị thị kiến thấy một thiếu niên cầm tay dẫn chị vượt qua các gai góc chèn ép tâm hồn, và chị nhận ra đó là chính Chúa Giêsu, Đấng đã đổ máu trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta. Từ đó trở đi, đời sống kết hiệp với Chúa của chị được củng cố, đặc biệt trong các thời gian phụng vụ ý nghĩa nhất như: Mùa Vọng Giáng Sinh, Mùa Chay Phục Sinh, các lễ của Đức Mẹ, cũng như trong những lúc đau yếu không tham dự giờ kinh chung với cộng đoàn được.

Tiểu sử của chị ghi lại hai hướng đi của cuộc hoán cải ấy. Thứ nhất là trong việc học hành: từ các môn nhân văn đời hướng sang các môn thần học. Thứ hai là trong việc tuân giữ luật đan tu: từ cuộc sống lơ là sang cuộc sống cầu nguyện sâu đậm, thần bí với nhiệt tình truyền giáo ngoại thường.

Giờ đây, chị được dẫn lên núi của sự chiêm niệm, nơi chị từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Từ thầy văn phạm, chị trở thành nữ thần học gia. Chị tìm đọc tất cả các sách thánh có thể có và khiến cho con tim mình tràn đầy các câu kinh thánh êm dịu nhất. Và chị luôn luôn có các lời linh hứng cho những ai đến hỏi ý kiến của chị, hay để phản bác bất cứ ý kiến sai lạc nào và bịt miệng các người chống đối.”

Đức Thánh Cha nhấn mạnh ý hướng tông đồ của thánh nữ Gertude như sau:

“Chị Gertrude biến tất cả những điều đó thành việc tông đồ: chị viết và phổ biến chân lý đức tin với sự rõ ràng và đơn sơ, duyên dáng và có sức thuyết phục. Chị trung thành phục vụ Giáo Hội đến độ sinh ích lợi cho cả các thần học gia và những người đạo đức và được họ chấp nhận. Rất tiếc là từ các sinh hoạt phong phú ấy của chị, người ta đã chỉ giữ lại được tác phẩm ”Người loan báo tình yêu Thiên Chúa” hay các ”Mạc khải” và các ”Cuộc tĩnh tâm”, là hạt ngọc của nền văn chương thần bí thiêng liêng. Lý do cũng là vì đan viện Helfta đã bị tàn phá.

Các lời nói và gương sống của chị khơi dây nơi người khác lòng sốt mến sâu xa. Ngoài đời cầu nguyện và hãm mình, chị còn có lòng đạo đức và hoàn toàn tín thác nơi Thiên, khiến cho ai gặp chị đều nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho chị hiểu rằng Ngài kêu gọi chị, chính là để chị trở thành dụng cụ ơn thánh của Ngài. Tuy nhiên, chị luôn ý thức được sự bất xứng và nghèo nàn của mính và hoàn toàn gắn bó với ý muốn của Thiên Chúa.

Có hai ơn mà chị yêu mến nhất: đó là các dấu vết cuộc khổ nạn mà Chúa in sâu trong tâm hồn chị, như đồ trang sức con tim; và vết thương tình yêu mà Ngài đã khắc ghi trong chị. Đó là các ơn trọng đại, mà nếu có phải sống xa Chúa hằng nghìn năm không nhận được sự ủi an trong ngoài nào, chỉ nhớ tới các ơn ấy cũng đủ để an ủi, soi sáng và làm cho chị tràn ngập lòng biết ơn Thiên Chúa.”

Thánh nữ Gertrude Cả qua đời ngày 17 tháng 11 năm 1301 hay 1302, khi mới được 46 tuổi.

Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau:

“Cuộc đời của thánh nữ Gertrude Cả là một trường học của đời sống kitô, của con đường ngay thẳng. Nó cho chúng ta thấy rằng trung tâm cuộc đời hạnh phúc, của một cuộc sống đích thật, là tình bạn với Chúa Giêsu. Tình bạn đó, chúng ta học được trong lòng yêu mến Kinh Thánh, yêu mến phụng vụ, trong đức tin sâu đậm và trong tình yêu đối với Mẹ Maria, để ngày càng hiểu biết chính Thiên Chúa một cách đích thực hơn. Đó là hạnh phúc thật và là đích điểm cuộc sống của chúng ta.”

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm khác nhau, như nhóm các Linh Mục sinh viên trường thánh Phaolô, trong đó có nhiều linh mục Việt Nam, cũng như các chủng sịnh dòng các Tôi tớ Công trình Bác Ái của Cha Guanella và các thành viên tổng tu nghị dòng Thừa Sai Tận Hiến Đức Mẹ Vô Nhiễm.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết mùng 7 tháng 10 là lễ Đức Mẹ Mân Côi. Ngài mời gọi mọi người yêu mến lần hạt Mân Côi mỗi ngày. Đó là lời kinh rất thân thương của truyền thống kitô, đọc kinh Mân Côi để suy ngắm các mầu nhiệm cuộc đời của Chúa Cứu Thế và được nhiều ơn lành hồn xác.

Sau cùng, Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

(Đài Vatican - 06/10/2010)