Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

CÁO PHÓ CON ĐỨC CHÚA TRỜI TỬ NẠN !


CÁO PHÓ


Trong niềm tin vào tình thương của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, chúng tôi thành kính báo tin cùng các anh em môn đệ, thân bằng quyến thuộc, bạn hữu xa gần và toàn thể nhân loại:

Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, Thầy, Người Yêu và Bạn của chúng tôi là:

GIÊSU KITÔ

Đã được CHA gọi về vào giờ thứ chín ngày Lễ Vượt Qua, khoảng năm 26 sau Công Nguyên (AD), tại Giêrusalem, hưởng thọ 33 tuổi.

Nghi thức hạ xác, tẩm liệm sẽ được tổ chức trên đồi Golgotha, sau đó linh cửu sẽ được mai táng trong mồ đá gần đó.

Ngày giờ có thể đi viếng mộ: sau ngày Sa-bát, ngày thứ nhất trong tuần (nếu bạn sống ở thế kỷ 21 hãy đến thăm viếng vào Tam Nhật Thánh tại các nhà thờ Công giáo).
Kính xin mọi người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa Cha đã ban Con Một của Ngài xuống thế để cứu chuộc nhân loại.


--------------------------------------------------------------------------------

TIỂU SỬ CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ

- Họ và tên: J.hoschua (tiếng Do Thái) hoặc Jesua hay Jesu (tiếng Aramê), Giêsu (tiếng Việt)
- Danh hiệu: "Messiah" có nghĩa là "Đấng được sức dầu"
- Quốc tịch: Do thái, thuộc hoàng tộc David.
- Năm sinh: năm 7 trước Công Nguyên (trước khi vua Herôđê băng hà ít lâu: 4 năm trước CN)
- Nơi sinh: chuồng chiên, tại Belem.
- Nơi rửa tội: sông Gio-đan.
- Nơi thường trú: Nazareth.
- Ngôn ngữ: tiếng Aramê của miền Galilêa.
- Cha mẹ trần thế: Giuse và Maria.
- Cha thiên quốc: Chúa Cha
- Ngày chịu phép cắt bì: 8 ngày sau khi sanh
- Ngày tiến dâng cho Thiên Chúa: năm 12 tuổi
- Nghề nghiệp: thợ mộc (teknos), nghề của cha Giuse, nhưng hành nghề chữa bệnh rất giỏi.
- Gia tài: Không có gì, ngoài chiếc giường duy nhất là cây thánh giá gỗ.
- Học vấn: tại gia, trường Giuse-Maria, không bằng cấp, chỉ biết dùng ngón tay viết trên cát, nhưng được mọi người gọi là Master.
- Tình trạng gia cảnh: độc thân.
- Hoạt động công khai: năm 30 tuổi.
- Địa bàn hoạt động: giảng dạy khắp nơi, nhưng phần lớn chung quanh hồ Galilêa, mà trọng tâm là thành phố ngư phủ Capharnaum. Thời gian hoạt động chừng 2 năm rưỡi.
- Đề tài rao giảng: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến.
- Bài giảng đầu tiên: Bài giảng trên núi về Tám Mối Phúc Thật
- Các Môn đệ: dù không phải là Rabbi, nhưng Ngài đã chọn ra 12 Tông đồ là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông; ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô; ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Chúa Giêsu cho các thượng tế.
- Các phép lạ: nước hóa thành rượu, năm chiếc bánh và hai con cá nuôi năm ngàn người ăn, chữa lành các bệnh tật, trừ quỷ, cho người chết sống lại...
- Bữa tiệc sau cùng: Bữa Tiệc Ly
- Tội phạm: Giới thẩm quyền Do thái đã tố cáo Ngài phạm thượng, dám xưng mình là Con Thiên Chúa.
- Bản án: Chính quyền Roma, đại diện là Pontio Philatô, đã lên án Ngài và cho đóng đinh vào thập giá.
- Hành quyết: bị đóng đinh sau trưa ngày lễ Vượt Qua, tại một nơi nằm ngoài vòng đai thủ đô Giêrusalem.
- Mai táng: trong mồ đá, tại một chỗ không xa nơi hành quyết.
- Nơi chết: Trên đồi Golgôtha
- Các biến cố lịch sử trong đời: Giáng sinh tại Bêlem, chịu phép rửa trên sông Giođan, biến hình trên núi Tabo, chịu chết trên đồi Gôlgotha, sống lại từ cõi chết, và lên trời.
- Bảy lời sau cùng: "Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng" (Luke 23:32-34), "Ngày Hôm Nay Con Sẽ Ðược Ở Với Ta Trên Nước Thiên Ðàng" (Luke 23:35-43), "Này Bà, đây là con Bà!" (Gioan 19:16-27), "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi, nhân sao Chúa bỏ tôi" (Mathêu 27:45-47 Maccô 15:33-36), "Ta Khát" (Gioan 19: 28-29), "Mọi Sự Ðã Hoàn Tất" (Gioan 19:30-37), "Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha." (Luke 23:44-56)
- Tấm gương kỳ cục nhất: Rửa chân cho các môn đệ.
- Lời sau cùng trước khi về trời: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
- Dấu tích đặc biệt: Năm dấu thánh.
- Tác phẩm để đời: Lời, Mình và Máu Thánh mang lại sự sống đời đời cho nhân loại.
- Biến cố vĩ đại sắp làm: Đến lần thứ hai trong vinh quang.

Tang gia đồng khấp báo. Cáo phó này thay thế thiệp tang. Xin miễn phúng điếu và tặng vòng hoa. Nếu có lòng hảo tâm, xin dùng tiền vào việc bác ái giúp người nghèo.

Đại diện:
Tông đồ Phêrô - Email liên lạc: chuadasonglaithat@alleluia.net

Cát Minh

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011

Giới Thiệu trang Thánh Kinh ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng


CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY NĂM A
Ed 37,12-14 ; Rm 8,8-11 ; Ga 11,1-45

BÀI ĐỌC I : Ed 37,12-14

Đức Chúa là Thiên Chúa phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en.13 Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta.14 Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa.

ĐÁP CA : Tv 129
Đ. Chúa luôn luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
(x c 7bc)

1 Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, 2 muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu.

3 Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng ? 4 Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài.

5 Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. 6a Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông.

6b Hơn lính canh mong đợi hừng đông, 7 trông cậy Chúa đi, Ít-ra-en hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. 8 Chính Người sẽ cứu chuộc Ít-ra-en cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn.

BÀI ĐỌC II : Rm 8,8-11

8 Thưa anh em, những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.9 Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô.10 Nhưng nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính.11 Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.

TUNG HÔ TIN MỪNG : Ga 11,25-26a
Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống ; ai tin vào Thầy sẽ không phải chết bao giờ.

TIN MỪNG : Ga 11,1-45

1 Hồi đó, có một người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a.2 Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là em của cô.3 Hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng."4 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh."
5 Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô.
6 Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở.7 Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: "Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê! "8 Các môn đệ nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao? "9 Đức Giê-su trả lời: "Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời.10 Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình! "
11 Nói những lời này xong, Người bảo họ: "La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây."12 Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại."13 Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường.14 Bấy giờ Người mới nói rõ: "La-da-rô đã chết.15 Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy."16 Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn đồng môn: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy! "
17 Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi.18 Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số.19 Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời.20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà.21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.22 Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy."23 Đức Giê-su nói: "Em chị sẽ sống lại! "24 Cô Mác-ta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết."25 Đức Giê-su liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.26 Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không? "27 Cô Mác-ta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian."
28 Nói xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: "Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy! "29 Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su. 30 Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta đã ra đón Người.31 Những người Do-thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
32 Khi đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết."33 Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến.34 Người hỏi: "Các người để xác anh ấy ở đâu? " Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem."35 Đức Giê-su liền khóc.36 Người Do-thái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy! "37 Có vài người trong nhóm họ nói: "Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư? "38 Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại.39 Đức Giê-su nói: "Đem phiến đá này đi." Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày."40 Đức Giê-su bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao? "41 Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: "Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con.42 Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con."43 Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! "44 Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi."
45 Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.

SỰ SỐNG ĐÍCH THỰC
CHỈ TRONG ĐỨC KI-TÔ GIÊ-SU PHỤC SINH


Chúa nhật trước, Đức Giê-su mở mắt cho người mù từ thuở mới sinh (x Ga 9,1-41), và ta đã hiểu đó là dấu chỉ Ngài thực hiện cuộc tái tạo, vì Ngài biết “lương bổng của tội là sự chết” (Rm 6,23). Nó làm cho mắt tâm hồn loài người bị mù khởi đi từ tội nguyên tổ Adam-Eva. Do đó để cứu loài người, Ngài phải làm cho mọi người được sáng mắt, hầu nhận biết “đâu là hy vọng nhờ ơn Ngài kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao, Ngài đã thi thố cho các Ki-tô hữu. Đó là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực mà Ngài đã biểu dương khi sống lại từ cõi chết, rồi về trời hằng ngự bên hữu Chúa Cha chuyển cầu cho chúng ta thoát tay tử thần” (Ep 2,18t).

Bởi vậy giáo lý Chúa nhật này đề cập đến việc Đức Giê-su ban Thần Khí của Ngài cho chúng ta để ta được sự sống đích thực – sự sống Phục Sinh – qua dấu chỉ Ngài làm cho La-da-rô đã chết bốn ngày cũng được sống lại.
Ta lại biết, theo Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su làm bảy việc lạ lùng :

Nước lã thành rượu ngon (x Ga 2).
Cứu sống con vị quan chức (x Ga 4,43t).
Chữa người bất toại đã 38 năm ( x Ga 5,1t).
Hóa bánh nuôi dân (x Ga 6,1t).
Chúa đi trên mặt biển (x Ga 6,16t).
Chúa mở mắt cho kẻ mù (x Ga 9,1-41).
Chúa phục sinh La-da-rô (x Ga11, 1-45).
Bảy sự lạ trên, ông Gio-an không nói là phép lạ, mà ghi là “dấu lạ”. Qua bảy dấu lạ ấy, ông Gio-an nhận ra ý Chúa : Mọi sự chỉ được trở nên hoàn hảo và tồn tại muôn đời nhờ, với, trong Ngôi Lời nhập thể (x Ga 1,1-5). Đó là tuần Sáng Tạo Mới, Chúa Cha sai Con Một Ngài vào đời làm hoàn tất.

Vì thế dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su làm cho nước hóa thành rượu nho (x Ga 2). Đây là dấu về Bí tích Thánh Tẩy. Qua nước của Bí tích này, Thánh Thần tháp ta vào Đức Giê-su là Cây Nho thật (x Ga 15), có thế ta mới được Phục Sinh với Ngài qua dấu lạ thứ bảy phục sinh kẻ chết (x Ga 11). Để rồi Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Thần Khí Thiên Chúa làm triển nở sự sống vĩnh cửu. Vì

I- THẦN KHÍ CHÚA LÀ NGUYÊN LÝ SỰ SỐNG THẬT.

Cơ thể ai cũng cần khí để thở, thì linh hồn càng cần Thần Khí Chúa làm cho sống hơn thế nữa, như thánh Phao-lô đã nói trong Bài đọc II : “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8,10-11). Đúng là “Chúa luôn luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa”(Tv 130/129, 7bc : Đáp ca).

Như vậy,
* Sự chết không chế ngự được thân xác Đức Giê-su, vì nhờ Thần Khí trong bản tính Thiên Chúa hằng sống của Ngài. Đây là nguyên lý làm cho thân xác ta, dù có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng làm cho ta được trở nên công chính, bảo đảm sự Phục Sinh, vì cùng chung một sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi (x Rm 8, 10 ; Ga 6,57).Và sự chết không thể tồn tại trong bản tính toàn năng toàn thiện của Chúa Giê-su Phục Sinh, cũng nhờ Thần khí của Ngài làm cho sự chết chỉ là một giấc ngủ (x Mc 5,39 ; Ga 11,11: Tin Mừng). Do đó sự tội trong con người tín hữu không thể chung hợp với sự chiến thắng mà họ đã được nhận nơi Đức Giê-su Phục Sinh, bởi Thần Khí đổ xuống dẫy tràn ơn trên kẻ đã phạm tội mà sám hối chạy đến với Ngài, để được Ngài biến tội thành ơn, như lời thánh Phao-lô nói : “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội!” (Rm 5,20).

II- DẤU CHỈ THẦN KHÍ HOẠT ĐỘNG NƠI NGƯỜI KI-TÔ HỮU.

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Bài đọc I) đã tuyên sấm như sau : “Chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel. Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm” (Ed 37,12-14). Nhưng Thần Khí Chúa chỉ bày tỏ vinh quang trên những con người :

Luôn luôn tin tưởng Thiên Chúa yêu thương những kẻ muốn thuộc về Ngài, như lời người ta thưa với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, người Thầy yêu đau !” (Ga 11,3 : Tin Mừng), chứ họ không thưa “người yêu Chúa đau”. Quả thật ai bị “đau”, đó là dấu Chúa yêu họ !
Như bà Mát-ta tin rằng ai có Đức Giê-su ở cùng, người ấy sẽ không chết. Bà nói : “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây, em con đã không chết” (Ga 11,21: Tin Mừng). Mà dẫu có chết thối rữa đến bốn ngày như anh La-da-rô, thì họ cũng sẽ được Phục Sinh trong ngày cánh chung ! (x Ga 11,24 : Tin Mừng).
Phải liều chết vì Chúa, như ông Tô-ma đã động viên các môn đệ khác : “Chúng ta hãy theo Thầy để cùng chết với Thầy !” (Ga 11,16 : Tin Mừng). Bởi vì Đức Giê-su đã nói : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy sẽ không phải chết bao giờ” (Ga 11, 25-26a : Tung Hô Tin Mừng).
Nhất là những người tham gia vào sứ mệnh rao giảng Lời của Đức Giê-su. Đan cử như hai chị em Mát-ta và Ma-ri-a : Chị Mát-ta thì luôn luôn chu đáo dọn tiệc thiết đãi Thầy Giê-su ; còn cô Ma-ri-a thì luôn mở rộng tâm hồn để Thầy Giê-su rót Lời vào, chẳng quan tâm đến lời chị khiển trách (x Lc 10, 38-42). Cô Ma-ri-a nhờ Lời Chúa đã thấm vào tâm hồn, nên hiểu được nỗi buồn phiền của Thầy Giê-su bị bọn đầu mục Do Thái chống đối, vì Thầy đã cho La-da-rô, em cô sống lại, và họ đang tìm mưu tính kế để diệt Thầy, nên cô đã đoán trước Thầy sẽ bị chúng giết, do đó không chờ đến lúc Thầy được an táng trong mồ mới ra xức dầu, mà ngay khi Thầy đang dự tiệc ở nhà cô, cô đã mua bình dầu 300 quan để đổ vào chân Thầy. Đây là số tiền tương đương lương của một công nhân làm suốt một năm rưỡi (x Mt 20,2). Môn đệ Giu-đa thấy thế lấy làm tiếc, thì Đức Giê-su bảo : “Maria làm việc ấy để chỉ về ngày mai táng Thầy” (Ga 12,1-11).
Vì công đức của hai chị em này, mà Đức Giê-su đã cho La-da-rô, em các chị được sống lại. Chính vì vậy mà ông Gio-an đã đưa hai chị Mát-ta và Ma-ri-a đặt lên đầu trình thuật trước phép lạ (x Ga 11,1-2 : Tin Mừng), nhằm động viên mọi người bắt chước hai chị em này biết cộng tác với Hội Thánh lo việc Nước Thiên Chúa, đem ơn cứu độ đến cho mọi người, nhất là những người ta có trách nhiệm.

Nhưng ta phải xác tín rằng : Sự sống Phục Sinh phát triển nhiều hay ít, còn lệ thuộc cách biểu lộ sống Đức Tin và lòng mến ít hay nhiều của mỗi Ki-tô hữu, và của cộng đoàn dân Chúa (Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công).

Thực vậy, một hài nhi còn trong bụng mẹ, nó đã có sự sống của con người, nhưng sự sống ấy phải còn được vươn tới sự sống thần linh của Thiên Chúa (x Ga 6,57), sự sống ấy sẽ tăng triển ít hay nhiều còn tùy theo sau này khi nó đã lọt lòng mẹ, nó có chịu khó lao công vào việc của Thiên Chúa (x Ga 6,27), và lo tìm kiếm Nước Chúa trước và sự công chính của Ngài (x Mt 6,33) hay không ?

Đức Giê-su hôm nay phải khóc trước mộ anh La-da-rô (x Ga 11,35) không phải chỉ vì lòng trắc ẩn : “Một chi thể đau, chi thể khác đau chung” (x 1Cr 12,26a), mà Ngài còn khóc vì những kẻ chứng kiến phép lạ vĩ đại này, đáng lẽ họ phải tin Ngài là Thiên Chúa để được sống, nhưng tiếc thay phép lạ ấy lại làm cho lòng dạ họ trở nên chai đá, không tin, thì họ không thể nhận được sự sống Phục Sinh Ngài ban, và như thế mục đích Chúa làm cho người chết sống lại không đạt! Kẻ nào không tin Ngài là Chúa, chúng sẽ bị tiêu diệt như số phận đền thờ Giêrusalem mà Ngài nhìn thấy trước sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, khiến Ngài phải bật khóc! (x Lc 19,41).

Xưa kia vua Đa-vít thấy Absalon, đứa con phản bội cha, bị tướng Gio-áp đâm chết, vua òa khóc nức nở : “Áp-sa-lon con ơi, phải chi cha chết thay cho con !” (x 2Sm 19,1) Vua Đa-vít chỉ ước chết thay cho con được sống, chứ ông không thể thế mạng cho con trai mình được ! Trái lại, Đức Giê-su khóc cho lũ dân phản bội, và Ngài đã hiến mạng chết trong cảnh tủi nhục vì tội họ, để cho chúng được sự sống thật! Tình thương Chúa dành cho loài người tội lỗi cao cả đến thế, mà nhiều người không biết đón nhận, nên Đức Giê-su phải rên lên : “Liệu ngày tôi trở lại, có còn gặp được niềm tin nào trên mặt đất này không ?!” (x Lc 18,8).
THUỘC LÒNG.
Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính (Rm 8,10). (theo www.thanhlinh.net)

Thứ Tư, 30 tháng 3, 2011

Sống Đẹp - Nghệ thuật thu phục nhân tâm !



NGHỆ THUẬT ĐỐI NHÂN XỬ THẾ


"Ðối nhân xử thế" là cả một "nghệ thuật".
Bài này giúp chúng ta những phương thết để đối xử sao cho đẹp lòng người.

I : Hiểu rõ ước muốn con người

1. Bước đầu tiên trong quan hệ giao tế là hiểu rõ về con người.

2. Điều mà mọi người quan tâm, đó chính là bản thân họ chứ không phải bạn. Đây là mấu chốt của giao tế.

II : Khéo léo trong trò chuyện

1. Khi trò chuyện với người khác, bạn hãy chọn vấn đề mà họ cảm thấy hứng thú nhất : đó cũng chính là bản thân họ.

2. Bạn sẽ thấy rằng mọi người say sưa nói về họ hơn bất cứ vấn đề nào.

3. Nếu bạn khéo gợi cho họ nói về họ thì họ sẽ rất thích bạn và bạn sẽ trở thành một người nói chuyện được hoan nghênh.

4. Chúng ta không gây được cảm tình với người khác vì chỉ biết suy nghĩ về mình, đàm luận về mình.

III : Khéo léo khiến kẻ khác cảm thấy mình là quan trọng

“Ai cũng cho mình là quan trọng”. Ý thức được điều đó và khéo vận dụng nó là một trong những hòn đá tảng quan trọng của quan hệ giao tế thành công. Muốn vậy, phải :

1. Lắng nghe họ. Từ chối lắng nghe người khác sẽ khiến đối tượng cảm nhận sâu sắc là bản thân họ không quan trọng.

2. Khen ngợi họ.

3. Thường xuyên sử dụng họ, tên và hình ảnh của họ sẽ khiến họ rất thích bạn.

4. Dùng chữ “Ông”, “của Ông”, chứ không nói “Tôi”, “của tôi”.

5. Chú ý đến mỗi người trong nhóm, đừng chỉ quan tâm đến lãnh đạo hay người phát biểu


IV : Khéo léo tán đồng người khác

Đây là một trong những kết tinh trí tuệ của thời đại chúng ta. Gồm 6 điểm

1. Khi tán đồng người khác, hãy nói ra. Gật đầu và nói “Tôi đồng ý với ông” hay “ông nói đúng”.

2. Khi không tán đồng, nhất thiết đừng nói cho họ biết, trừ phi bất đắc dĩ.

3. Khi bạn phạm lỗi, cần can đảm thừa nhận

4. Tránh tranh luận với người khác, cho dù bạn đúng. Không ai có thể chiến thắng từ tranh luận, cũng không ai có được bạn bè từ cuộc tranh luận.

5. Xử lý chính xác xung đột. Người hiếu chiến chỉ nghĩ tới một việc là đấu ngay. Phương thế tốt để đối phó với họ là từ chối tranh đấu với họ.

Tóm lại, căn nguyên của nghệ thuật tán đồng là bởi vì :

1.Người ta thích được tán đồng họ.

2.Người ta không thích bị phản đối.

V : Khéo léo lắng nghe

Trong cuộc sống, không có gì giúp bạn hữu hiệu hơn là làm một thính giả tốt : bạn sẽ dành được nhiều tình cảm tốt đẹp hơn là làm một người nói hay. Cần có 5 điều :

1. Nhìn chăm chú người nói chuyện.

2. Tập trung lắng nghe họ.

3. Nêu câu hỏi.

4. Không bao giờ ngắt lời kẻ khác.

5. Sử dụng kiểu nói “Ông”, “của Ông”.


Tóm : 5 điều này sẽ giúp bạn đạt được những báo đáp to lớn do việc lắng nghe mang lại.

VI : Nghệ thuật gây ảnh hưởng

1. Điều trước tiên là phải tìm hiểu xem họ thích cái gì hay đang theo đuổi cái gì. Và rồi hãy nói với người khác điều họ thích nghe. Đây là bí quyết lớn gây ảnh hưởng trên người khác vì ta đã đánh trúng mục tiêu. Bạn hãy vận dụng nguyên tắc này vào thực tế cuộc sống.

2. Phương pháp để hiểu rõ điều người khác muốn là : hỏi ý kiến nhiều, quan sát nhiều, lắng nghe nhiều, cộng thêm nỗ lực không biết mệt mỏi của bản thân.

VII : Nghệ thuật thuyết phục

1. Phương thức tốt nhất là đừng trực tiếp trình bày nhưng nên để người khác nói thay cho bạn, dù người ấy không có mặt bên cạnh bạn. Ví dụ : chiếc xe này người hàng xóm của tôi dùng bốn năm nay rồi mà vẫn chạy tốt.

2. Đây quả là một hiện tượng kỳ lạ : người ta thường ít hoài nghi tính chân thực điều mà bạn gián tiếp trình bày. Còn nếu bạn trực tiếp nói ra thì họ sẽ hoài nghi bạn, không tin tưởng bạn đâu. Vì vậy, cần thông qua người thứ ba để nói ra.


VIII : Nghệ thuật để người khác ra quyết định

Bốn phương pháp giúp bạn thành công trong quan hệ giao tiếp :

1. Hãy nói với mọi người rằng nếu họ làm theo điều bạn nói thì họ sẽ được lợi, chứ không phải bản thân bạn.

2. Hỏi những câu chỉ có thể trả lời “vâng”.

3. Khiến người khác chọn một trong hai chữ “được”. Nghĩa là chọn cái nào thì cũng đều nói “được” với bạn.

4. Cho người ta thấy tầm quan trọng của sự việc

IX : Trước tiên hãy cười lên

1. Giây phút ban đầu trong giao tế luôn có tính quyết định. Vì vậy, trước khi nói hay phá vỡ sự im lặng, bạn hãy nở nụ cười thân thiết. Phản ứng tiếp theo là người ta cũng sẽ nở nụ cười đáp lại bạn.

2. Người ta thường quên điều này : mình bỏ ra bao nhiêu thì sẽ được báo đáp bấy nhiêu. Nếu bạn trao cho người khác ánh mặt trời thì bạn sẽ nhận lại được ánh mặt trời, nếu bạn trao cho người khác mưa bão thì bạn cũng sẽ nhận trở lại mưa bão.

3. Ngữ điệu và biểu lộ cảm xúc nét mặt của bạn cũng rất quan trọng, vì chúng cho thấy tư tưởng nội tâm của bạn. Vậy, bạn hãy cười lên.


X : Nghệ thuật khen ngợi

Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Bạn còn nhớ cảm giác khi nhận được một lời ca ngợi làm bạn hưng phấn suốt ngày đêm chứ ? Vì vậy, bạn nên nói những lời ca ngợi tán thưởng người khác thì người ta càng thích bạn, đồng thời cũng vì vậy mà bạn được lợi vô cùng. Nhưng xin bạn hãy chú ý những điều sau đây :

1. Lời ca ngợi phải chân thành.

2. Ca ngợi hành vi chứ đừng ca ngợi con người

3. Ca ngợi cần cụ thể, cần bắn tên có đích

4. Tập thói quen ca ngợi ba người mỗi ngày.


XI : Nghệ thuật cảm tạ

Nếu bạn cảm kích người nào đó mà họ biết được thì lần sau họ sẽ báo đáp bạn nhiều hơn. Nếu bạn không bày tỏ thì rất có thể bạn sẽ không còn cơ hội

1.Thái độ cần chân thành.

2. Bày tỏ rõ ràng, tự nhiên.

3. Nhìn thẳng vào đối tượng.

4. Nói ra tên của đối tượng.

5. Tìm kiếm cơ hội bày tỏ lòng cảm kích.

Những nguyên tắc trên nhìn thì đơn giản nhưng không có kỹ xảo giao tế nào hữu hiệu hơn

XII : Nghệ thuật gây ấn tượng tốt

Khi chúng ta gặp kẻ khác lần đầu, ấn tượng mà chúng ta để lại cho họ chủ yếu là do hành vi của bản thân chúng ta quyết định. Cần phải :

1. Chân thành : lời nói đi đôi với việc làm.
2. Nhiệt tình.
3. Không cần quá nôn nóng.
4. Đừng hạ thấp kẻ khác mà đề cao mình.
5. Đừng đả kích ai, bất cứ việc gì.

XIII : Nghệ thuật phát biểu

1. Hiểu rõ nội dung mình nói.

2. Nhìn thẳng vào thính giả,

3. Nói vấn đề mà họ cảm thấy hứng thú.


(Www.simonhoadalat.com; Mục Đối nhân Xử thế )

Trở về nhà Cha trong Giáo Hội Công giáo của một bác Sỹ !


Lời Chia Sẻ



TIẾNG CHUÔNG ĐIỆN THOẠI


Anh chị em Tân tòng thân mến!

Tôi xin được thổ lộ cùng anh chị em ba vấn đề sau đây:

1/ Tại sao tôi lại xin gia nhập đạo Kitô - Đạo Công giáo. Thưa có 4 lý do sau đây:

- Tôi may mắn được quen thân một chứng nhân sống, đó là một người đàn bà Công giáo, tên bà là Teresa Nguyễn Thị Sa, người tỉnh Hà Đông, thuộc xứ Đại ơn, năm ấy bà khoảng 50 tuổi. Bà là một con người hiền lành, thật thà, chất phác, đạo đức, không mấy khi bà to tiếng với ai, thương con chiều chồng hết lòng… Có hai lần bà trao lại cho tôi một chiếc nhẫn vàng 2 chỉ và 1 túi tiền lương của hơn 20 cán bộ Bệnh viện mà tôi lĩnh hộ về nhà. Hai chỉ vàng tôi đánh rơi vài ngày không rõ nơi mất, còn túi tiền thì sáng ra đi làm vội, bỏ quên ở trước cửa nhà, nơi đó người qua lại nhiều, bà quét nhà tình cờ nhìn thấy.

Bà ít khi quên ơn ai đã giúp đỡ bà hoặc chồng con mình.

Bà chăm đi lễ nhà thờ, bà đã dẫn 2 cháu ngoại tôi đi học giáo lý, cháu trở nên ngoan ngoãn hơn nhiều. Hai cháu đều được rửa tội, mẹ cháu (con gái tôi) thấy vậy cũng đi học giáo lý và cũng được làm con Chúa.

- Lý do thứ hai: Tôi được bà cho 1 quyển kinh bổn do nhà thời Phát Diệm phát hành năm 1990. Bước đầu tôi được hiểu đạo Chúa rành rọt. Trong quyển sách đó có 10 điều răn, ai xem cũng làm lý thú lắm. Chúng tôi gọi nó là “Luật đề phòng” có nghĩa là điều luật ngăn không cho phạm tội, chứ không để chờ phạm tội rồi mới đem ra xét xử.
Kinh thứ hai tôi lấy làm tâm đắc là Kinh hoà bình. Nhiều người xem thấy chí lý quá, có người còn ghi chép vào sổ tay.

- Khi hiểu được đạo Chúa rồi, tôi muốn được ơn cứu rỗi, đó là lý do thứ ba.- Lý do thứ bốn người ta đồn ông cha cố ở đây giảng bài hay lắm, bài giảng của ông thường thấm sâu vào lòng người…
2/ Tôi xin được chia sẻ phần thứ hai: Những khó khăn gì trước ngày rửa tội, xin thưa có hai lý do: khách quan và chủ quan.
+ Khó khăn bên trong: đó là tâm trạng của sự lựa chọn.

Lựa chọn gì vậy? Thưa, tôi là một phật tử, tôi đã theo đạo Phật 10 năm rồi. Cửa Phật là nơi tôi tĩnh tâm rèn mình khỏi mắc phải những thói hư tật xấu của đời thường, không để mất hoặc giảm lương tri.

Tôi là một người thầy thuốc, địa vị ấy dễ bị sa ngã vì đồng tiền bất chính. Tôi ghi vào quyển sổ nhật ký lời Phật bà dạy như sau: “…Thương người Trời lại thương liền/ Của ta bỏ một Trời đền cho muôn/ Lượng Trời thật vô lượng vô cùng/ Làm công chớ nghĩ đến công/ Làm lành chớ để ở trong dạ này/ Thế mới là lòng ngay dạ thẳng/ Thế mới là phúc đẳng hà sa/ Con ơi hãy ngẫm cho ra/ Bên tiền bên đức con đà thử cân/ Tích đức được muôn năm bền chắc/ Bạc tiền rồi có lúc tan không…”

Thời gian ấy, các đền chùa, cho dù xa dù gần, dù nắng mưa gió rét tôi đều có mặt trong các ngày lễ lớn. Tôi đã rước Phật về thờ tại gia để dễ bề kinh nguyện sáng tối.

Tôi đã có lòng mến mộ Phật từ thời ấy, đến nay tôi lại chọn đi với Chúa, sự lựa chọn đó đã làm cho tôi trăn trở ngày đêm.

Có một câu chuyện mà làm cho tôi nhớ mãi: Có một hôm trong đêm khuya thanh vắng, tôi đang đọc sách bỗng có tiếng chuông điện thoại vang lên làm tôi giật mình, không ngờ đầu dây bên kia lại là tiếng gọi của một cháu bé gái lên 6, đã được rửa tội là cháu ngoại tôi. Nhấc máy lên “a lô, a lô, bà ngoại đấy à”, như ra lệnh cháu nói “một trong hai con đường bà chọn con đường nào? A ha…a ha” cháu cười nhạt. Tôi vẫn lắng nghe trong im lặng, cháu biết là tôi xúc động nên giọng cháu trầm lại “a lô, bà ơi bà, cháu xin lỗi bà, bà đừng khóc nữa, bà ơi! Bà cứ thắp hương cho Phật cũng được, nhưng thắp một cây thôi nhé”. Tôi chỉ ậm ừ, mãi cháu mới đặt máy xuống.

Đêm đó tôi không sao ngủ được, tôi ghi lại dòng tâm sự trong nước mắt:

Tâm tư

Đời con như giữa ngã ba
Theo Phật Kính Chúa xin Cha giãi bày
Đường nào con cũng mê say
Chư Phật dạy bảo những ngày còn thơ

Những điều răn ấy chưa mờ
Ơn nhờ Phật dạy không dơ mùi bùn

Đạo lý xuống dưới đất đen
Con như tắm giữa ao sen mát lành

Đến nay lại hiểu ngọn ngành
Chúa là Thiên Chúa Cha sinh rõ ràng
Chúa là con một Trời ban
Chúa xuống chuộc tội cứu đàn sinh linh
Trải bao cay đắng nhục hình
Cho ta có được hiển vinh đời đời
Thịt da máu Chúa rụng rơi
Là ơn cứu độ đời đời cho ta
0n Chúa vô vàn bao la
Con hiểu quá chậm xin Cha thương lòng
Con như những kẻ làm công
Hái nho được ít chắc không hề gì
Cha thương không phải nằn nì
Dù sớm dù muộn vẫn ghi công đều
Lạy xin Thiên Chúa Ba Ngôi
Cho con được đến làm tôi tớ Ngài

Đêm 28.9.97



+ Những khó khăn bên ngoài:
Tôi học xong lớp Giáo lý thứ nhất, con gái tôi rủ tôi đi học, cháu đã học được 5-6 bài rồi, cháu nói “học giáo lý Cha giảng hay lắm, mẹ đi học đi”, kỳ thi kiểm tra tôi cũng được trên điểm trung bình 15/20 điểm (điểm tối đa là 20 điểm)

Từ ngày ghi tên vào học lớp giáo lý, ngày nào tôi cũng đi tham dự thánh lễ ở nhà thờ Thái Hà.

Lòng mến Chúa trong tôi ngày một hơn, tôi quyết định xin Cha cho rửa tội, nhưng không thành! Tôi nhờ các ông bà đứng đầu Hội thánh thưa dùm. Nhưng…Cha cần có thời gian để thử thách.

Tôi không chán nản, nhưng trong lòng đôi lúc cũng buồn buồn. Nhất là trong các giờ thánh lễ, tôi phải ngồi yên một chỗ, nhìn mọi người lên rước Chúa, có lúc cũng rơm rớm nước mắt, và có phần ái ngại thấy người xung quanh nhìn mình.

Tôi lại ghi tên vào học lớp giáo lý thứ hai, ngay từ đầu tôi đã đặt cho mình một nhiệm vụ như là khoa cử.

Tôi nghiền ngẫm sách giáo lý và đọc thêm Kinh thánh, muốn hiểu sâu về Đạo Chúa, một phần nữa để tỏ cho Cha hiểu thêm về sự nhất tâm của mình.

Lớp giáo lý bế giảng, điểm thi của tôi…xin các bạn thử đoán là bao nhiêu điểm?

Nghi thức Thanh Tẩy làm con Chúa tôi không phải xin Cha xứ nữa, Ngài đã xếp ngày vui ấy rồi. Cả cộng đoàn trong Giáo xứ Thái Hà cùng hân hoan với tôi, lòng thư thái nhẹ nhàng, tâm hồn tôi lâng lâng như một giấc mơ…sau hai năm đã được thử thách.

Còn một tuần nữa thôi, tôi phải đến từng gia đình anh em họ hang để báo cáo, người thì ủng hộ kẻ thì miễn cưỡng, các bạn bè xa gần tôi đều báo tin hết, có người thì vui, có người thì băn khoăn chất vấn tôi. Tôi nói hết…chẳng việc gì phải úp mở.

Các bạn thân mến, thật là suôn sẻ, trong mọi việc như đã an bài.

Nhưng! Trong lòng tôi lại bứt rứt xốn xang làm sao?! Chẳng đêm nào tôi ngủ được, con gái tôi phải mời bà mẹ đỡ đầu của tôi (chính là bà Sa) để luôn ở bên tôi đọc kinh cầu nguyện cho tôi.

Phải chăng tâm trạng tôi đang phải cọ xát với sự lựa chọn…

Còn một đêm cuối cùng nữa là ngày vui đến, trong lòng tôi mới hết phân vân, không khí gia đình bớt trầm mặc.

Niềm vui và trách nhiệm đến với mọi người, ai cũng được phân công rõ ràng nhiệm vụ của ngày mai, ai mua hoa, ai dâng lễ, ai là quần áo, ai tiếp khách…

Rộn rã hẳn lên như đang chuẩn bị cho một ngày cưới. Chuông điện thoại réo lên cả ngày…nào bạn bè bà con xa gần chúc mừng, người thì xin địa chỉ để đến tham dự.

Đúng chiều ngày mồng 8 tháng 9, bạn bè xa gần họ hàng bà con có mặt đông đủ ở nhà thờ Thái Hà, bà con lối xóm cũng hoa, đàn ông đàn bà quần áo là lượt như đi Lễ cưới vậy. Ôi! buổi chiều hôm ấy rộn ràng làm sao, quang cảnh nhà thờ tưng bừng như ngày dạ hội. Ông Từ và các người trong xe kháo nhau: " Đám cưới nhà ai mà sang thế nhỉ sao chưa thấy cô dâu và chú rể đâu..."

18h30' tiếng chuông uy nghi reo lên, Cha chủ tế cùng đoàn người giúp lễ bước ra cung thánh đi thẳng xuống dưới cuối nhà thờ.

Đoàn người đông đảo phần lớn là bên lương, già trẻ gái trai, quần áo đủ mọi màu sắc sặc sỡ đang đứng chờ để tiến vào cung thánh.

Tôi bước đi như trên mây...

Thánh Lễ được cử hành đồng tế. Lòng rạo rực niềm vui...

Thánh Lễ xong, anh chị em trong gia đình bạn bè tôi và các trưởng hội đoàn trong giáo xứ còn bịn rịn với tôi trước ống kính chụp ảnh, giờ liên hoan, văn nghệ phát biểu cảm tưởng.

Cuối ngày, tôi ghi lại cảm nghĩ của mình:



Một ngày nhớ mãi

Chiều thu về tiết trời ảm đạm.
Lá vàng rơi... từ giã thân cây
Mà lòng dường những tràn đầy,
Mùa xuân đến giữa tháng ngày với ta.
Ai đem lại không gian trìu mến,
Con nhớ hoài nhớ mãi không thôi.
Trong con Chúa đến bồi hồi...
Lòng Cha, tình bạn người người nở hoa.
Đã bao năm con khao khát Chúa
Lòng ước mong xin Chúa về đây.
Chiều nay như giấc mơ say
Lòng con yêu Chúa ngày ngày đừng qua.

Sinh nhật Đức Mẹ- 1999



3/ Tôi xin chia sẻ phần cuối:
- Sau ngày Rửa tội còn khó khăn gì nữa không?. Xin thưa là không.

Tôi đã nắm bắt được người bên lương còn mặc cảm lớn với với Đạo Công giáo chúng ta điều gì. Đó là nghi thức thờ cúng ông bà tổ tiên. Ngày nào các cha cũng dâng Lễ cho các bậc tiền bối, cho các linh hồn...

Nhưng nghi thức cúng Lễ của người bên lương lại khác hẳn bên Giáo. Ngày Giỗ ngày Tết có gà, có mâm cao cỗ đầy, khói hương nghi ngút, trên bàn thờ mới là trọn nghĩa. Ngoài ra còn có các thủ tục khác nữa như đốt vàng mã...

Có một điều mà trước đây Giáo hội ta đã bỏ qua: Thắp hương, một nén hương tưởng nhớ đến người đã qua cũng chẳng thấy đâu? Cứ tưởng việc làm nhỏ nhặt, ngờ đâu lại ăn sâu vào tiềm thức của người lương: " Theo Chúa thì bỏ hết Giỗ Tết, cha mẹ, ông bà". Đó là mặc cảm lớn nhất của họ. Để xóa bỏ mặc cảm đó tôi phải làm gì? Trước hết ngày Giỗ ngày Tết tôi cũng phải làm y như mọi người trong gia đình, kể cả cúng vàng mã ( làm xong có khi tôi đi xưng tội hoặc khấn xin Đức Mẹ trước khi làm để mong được nhẹ tội. Để rồi dần dà...)

Còn những việc làm khác như hiếu hỉ thăm nom người đau ốm, giúp đỡ người sa cơ lỡ bước thì tôi cố gắng chu đáo hơn trước, chắc sẽ làm đẹp lòng Chúa hơn.

Tôi mỉm cười khi có tiếng xầm xì về tôi: " Người Công giáo như thím Sâm thì còn phải nói."

"Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa". Sau hơn một năm tôi được làm con cái Chúa, cậu em rể tôi cũng cho em gái tôi và cháu nội đến nhà thờ học Giáo lý. Sáu tháng sau cả hai bà cháu cũng được Rửa tội một ngày. Tin vui ấy được báo ra Hà Nội. Thế rồi gia đình tôi 7-8 người kéo nhau vào Nghệ An trước mấy ngày để tham dự Thánh Lễ. Chúng tôi muốn được tổ chức long trọng, lời đề nghị được Cha Xứ chấp nhận. Lễ nghi được tổ chức y như giáo xứ Thái Hà ta, mà ở xứ đó chưa bao giờ tổ chức như vậy. Nhân ngày Chầu lượt của xứ, tiếng đồn càng vang xa.

Có một câu chuyện tôi xin được kể lại. Sau buổi thánh Lễ đó có một người đàn bà trung tuổi quê ở Vinh đến gặp em tôi, tay bắt mặt mừng, chị nói: " buổi Lễ trọng thể quá, chị được nhìn thấy ơn Chúa quá, em là người Đạo gốc đây, em chúc mừng chị ". Chị nói với giọng đầy xúc động: " Làm sao mà chị theo Đạo sốt sắng thế, ngày mai em đến nhà chị chơi."

Thế rồi sáng sớm ngày hôm sau, người Đạo gốc ấy đến chơi với em tôi, chị tên là Maria Nguyễn thị Liên , chị tâm sự nhỏ to chuyện gia đình chị chị thành lập gia đình khi tuổi đã cao. Chồng chị là giám đốc khách sạn lớn ở Thành phố Vinh, anh chị có hai con lớn rồi mà vẫn chưa được Rửa tội. Từ ngày về nhà chồng chị không đi nhà thờ nữa. Mỗi lần chị đặt câu hỏi: " ai đem các chị vào Đạo, làm sao mà sốt sắng thế, em là Đạo gốc đây..." chị lại rơm rớm nước mắt. Ra về chị hứa sẽ đem xe đến đưa em tôi đi Lễ nhà thờ cách nhà em tôi 1 cây số .Từ đó hai chị em đi Lễ đều. Chúng tôi đã trở thành thân tín của nhau trong Chúa Kitô.

Nửa năm sau, tôi về thăm quê có ghé vào chơi nhà Liên. Tôi được xem một số tấm hình chụp trong ngày vui ở nhà Thờ hình được treo trên tường tại nhà Liên. Có các cha tham dự: Cha Khôi, chính xứ nhà thờ Cầu Rầm, cha Lợi, cha Tâm Giáo sư Chủng viện Vinh Thanh, còn có các sơ đang ở nhà chị Liên để đi học, có những tấm hình gia đình chị chụp chung với các ngài, có cả chồng con của chị Liên, nét mặt vui tươi rạng rỡ của mọi người cho ta cảm giác họ đang sống tin yêu hạnh phúc trong Chúa Kitô. Liên nói: " Chồng em ủng hộ hai cháu cũng muốn đi nhà thờ chị cầu nguyện cho em với, cho hai cháu được Rửa tội...".

Ngày tháng trôi qua, tôi đã được chính thức làm con Chúa gần 6 năm với 2 năm tìm hiểu Giáo lý. Tám năm qua lòng tin yêu của tôi với Chúa như được lớn dần lên, xin anh chị em cầu nguyện cho tôi với.

Chúng ta là dòng dõi của ông thánh Phaolô Tông đồ chúng ta hãy nắm chặt tay nhau và xin hứa với Ngài luôn sống sao trọn nghĩa với Ngài như Ngài đã sống trọn nghĩa với Chúa.

Xin hết lời và xin cảm ơn anh chị em.


Hà Nội, ngày 08.08.2005
Bác sĩ Maria Anphongso Hoàng Lệ Sâm

--------------------------------------------------------------------------------

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2011

Anh chị em của tôi - nước Nhật Khát khao Thiên Chúa trong hy vọng vươn lên từ đổ nát !


Khát vọng

Trong những ngày qua, cùng với tin tức về thảm họa động đất và sóng thần tại Nhật Bản, có rất nhiều bài viết ca tụng người dân Nhật. Chẳng hạn, trên báo Tuổi Trẻ, số Chúa nhật 20-3-2011, một tác giả kể rằng ông không tin vào những điều người ta ca tụng dân Nhật “bình tĩnh, trật tự trong và sau trận động đất kinh hoàng”. Lý do là vì ông “đã chứng kiến tận mắt rất nhiều người cứ hay thổi phồng những câu chuyện họ thấy ở nước ngoài để dạy dỗ ngược trở lại những điều diễn ra ở Việt Nam”. Nhưng lần này ông buộc phải nghĩ lại khi nhìn thấy “những hình ảnh của người dân Nhật trong và sau sự cố được phát trên bản tin thời sự của VTV: những người dân quy củ xếp hàng nhận đồ cứu tế, dòng người xếp hàng nhiều đến nỗi người ta không thể đứng thành một hàng dọc, mà phải uốn thành hình cong trong một trật tự đáng khâm phục”.

Đúng là cả thế giới phải khâm phục dân tộc Nhật Bản. Trước đây người ta khâm phục Nhật Bản về những tiến bộ kỹ thuật và phát triển xã hội, nhưng bây giờ người ta thấy rõ hơn và khâm phục cái làm nên những tiến bộ và phát triển đó, chính là những người dân Nhật Bản. Nhiều cơ quan truyền thông không ngần ngại gọi Nhật Bản là dân tộc vĩ đại.

Tuy nhiên, cùng với sự khâm phục đó, có một thực trạng khác không nên quên: tại Nhật Bản, mỗi ngày trung bình có 100 người tự tử. Riêng trong năm 2007, số người Nhật tự tử là 33.093 người. Con số này có chiều hướng gia tăng chứ không giảm. Cụ thể là so với năm 2006, số người tự tử tăng 3%. Thế nên một trong những cam kết của Chính phủ mới là nỗ lực kéo tỷ lệ tự tử xuống. Với số người tự tử cao như thế, thiệt hại nhân mạng trong thảm họa sóng thần và động đất vừa qua, tuy khủng khiếp nhưng mới chỉ bằng một nửa.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao người dân sống trong một đất nước giàu có và văn minh như thế lại muốn tìm đến cái chết đông như vậy? Có thể có nhiều cách trả lời. Tôi đặc biệt chú ý đến bài viết của nhà văn người Nhật Ryu Murakami trên tờ New York Times ngày 16-3-2011. Ông là một cây viết nổi tiếng đã được trao tặng nhiều giải thưởng tại Nhật. Khi thảm họa xảy ra, từ Tokyo, nhà văn mô tả tình trạng động đất và những tác động trong đời sống người dân Nhật. Sau đó ông viết: “Cách đây 10 năm tôi có viết cuốn tiểu thuyết trong đó có kể câu chuyện một học sinh trung học đã tuyên bố trước quốc hội: Đất nước này thừa mứa mọi thứ. Ở đây người ta có thể tìm được mọi thứ mình muốn. Cái thiếu duy nhất là hi vọng”.

Lại chẳng phải là lời lý giải sâu sắc cho tình trạng tự tử hay sao? “Cái thiếu duy nhất là hi vọng”. Đã không còn hi vọng nữa thì sống làm gì? Một cuộc sống vô nghĩa, và vì thế, cần phải chấm dứt. Như thế, cái mà con người cần, cái đem lại hạnh phúc cho con người không chỉ là những tiến bộ kỹ thuật và sự giàu có thịnh vượng vật chất nhưng còn là niềm hi vọng.

Thế rồi Ryu Murakami hân hoan loan báo: “Bất kể những gì đã mất, người Nhật chúng ta đã tìm lại được một điều, đó là hi vọng. Cơn động đất sóng thần kinh hoàng đã cướp mất của chúng ta bao sinh mạng và bao nguồn của cải. Nhưng chúng ta, những người từng thừa mứa với sự thịnh vượng của mình, nay đang gieo trồng lại hạt mầm của hi vọng”. Hay quá! Nhưng niềm hi vọng mà nhà văn vui mừng loan báo là gì vậy? Ấy là vì trước đây người ta có đủ mọi thứ ngoại trừ hi vọng, còn bây giờ thì ngược lại: “Các trung tâm di tản đang phải đối mặt với bao thiếu thốn nghiêm trọng về thực phẩm, nước ngọt và thuốc men. Thiếu cả lương thực và điện ngay tại khu vực Tokyo. Cuộc sống của người dân đang bị đe dọa. Chính phủ và các cơ quan dịch vụ công đã không phản ứng đúng như lẽ ra phải có”. Chính tình trạng thiếu thốn đó khiến cho người ta phải đợi chờ và biết hi vọng vào tương lai tươi sáng hơn.

Hóa ra vậy! Bỗng cảm thấy chút thất vọng khi bài báo chỉ ngưng lại ở đó. Thất vọng vì tự nghĩ: đối với một dân tộc giàu có và hùng mạnh như dân Nhật, chắc sẽ không lâu để mọi sự đi vào ổn định. Sẽ không còn cảnh xếp hàng nhận đồ cứu tế hay đổ xăng. Sẽ không còn những kệ hàng trống vắng trong các siêu thị. Sẽ không còn những trại tạm cư thiếu thốn, và trên đống hoang tàn đổ nát sẽ mọc lên những ngôi nhà mới còn đẹp đẽ hơn bội phần. Lại sẽ thừa mứa mọi thứ. Phải chăng đến lúc đó – và không xa lắm đâu – niềm hi vọng lại sẽ lụi tàn? Lại sẽ tự tử mỗi năm mỗi nhiều hơn?

Nếu chân trời hi vọng chỉ là sự thịnh vượng và giàu có vật chất thì đúng là thế. Thành ra câu hỏi cốt yếu ở đây là câu hỏi về chân trời hi vọng của con người. Trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, từ vị trí của một người xin nước uống: “Chị cho tôi xin chút nước uống” (Ga 4,7), Chúa Giêsu giúp chị phụ nữ khám phá khát vọng sâu kín trong lòng chị, khát vọng mà không có ai và không có gì trong cuộc đời này có thể lấp đầy: “Chị nói tôi không có chồng là đúng vì chị đã năm đời chồng rồi và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (4,19). Rồi từ đó, Người giúp chị khám phá nguồn nước hằng sống có khả năng lấp đầy khát vọng của lòng người: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với chị “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin và người ấy sẽ ban cho chị nước hằng sống” (4,10).

Phải chăng đây là thách đố lớn nhất cho Hội Thánh trong nền văn hóa kỹ trị và duy vật ngày nay: đồng hành với con người trong mọi nỗi niềm cuộc sống để cùng với họ khám phá khát vọng sâu xa trong lòng người, và mạnh dạn giới thiệu với họ Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ? Người Kitô hữu có thể đáp trả thách đố này nếu niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô thực sự trở thành xác tín cá nhân xuyên qua những trải nghiệm của đời sống. Đó chính là con đường thánh Augustinô đã kinh qua để trở thành người loan báo Tin Mừng. Rất nhẹ nhàng mà đầy sức thuyết phục: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

(26-03-2011)

Theo Website Hdgmvietnam.org

Chúa Giê-su Khát các tâm hồn nơi Tòa Giải Tội !


Giá trị giáo dục của bí tích Hòa giải

WHĐ (27.03.2011) – Sáng 25-03, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã tiếp kiến các đại biểu tham dự hội thảo do Tòa Ân giải tổ chức. Đức Hồng y Chủ tịch Fortunato Baldelli và Đức cha Gianfranco Girotti, OFM, Nhiếp chính Tòa Ân giải, đã dẫn đầu phái đoàn yết kiến ĐTC.

Bài huấn từ của ĐTC trong buổi tiếp kiến đề cập đến giá trị giáo dục của bí tích Hòa giải đối với linh mục ban bí tích, cũng như đối với hối nhân lãnh nhận bí tích.

ĐTC nói: “Linh mục được trao một nhiệm vụ độc đáo, riêng biệt, giống như một đài thiên văn để hằng ngày đều được chiêm ngắm vẻ huy hoàng của lòng Chúa thương xót… Được trao trách nhiệm quản lý bí tích Hòa giải, mỗi linh mục phải học sống khiêm hạ và tin tưởng, đồng thời được thúc giục mạnh mẽ phải ý thức về căn tính của mình. Nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng nhân loại, linh mục không bao giờ có thể nghe được những lời xưng tội của anh chị em mình. Sở dĩ họ đến với linh mục vì linh mục được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, vị linh mục tối cao và đời đời, nên có thể hành động nhân danh Ngài và trong tư cách của Ngài. Qua linh mục, Chúa thực sự hiện diện, ban ơn tha thứ, canh tân và làm cho biến đổi”.

ĐTC nhắn nhủ các linh mục, những người được trao năng quyền tha tội: “Khi cử hành bí tích Hòa giải, chính linh mục cũng được Chúa dạy bảo về đức Tin, về sự thật và sự thiếu thốn của bản thân, bồi dưỡng ý thức về căn tính bí tích của mình”.

ĐTC tiếp tục bài huấn từ: “Rõ ràng việc lãnh nhận bí tích Hòa giải đặc biệt thể hiện sự tự do và ý thức về bản thân. Do đó trong thời đại phát triển chủ nghĩa tương đối và mất dần ý thức về bản thân, người ta ngày càng ít đến với tòa cáo giải. Việc xét mình xưng tội mang giá trị giáo dục rất lớn, dạy chúng ta biết chân thành nhìn nhận cuộc sống của mình, đối chiếu với chân lý Tin Mừng, thẩm định cuộc sống không chỉ bằng những thông số nhân loại mà do ơn Chúa soi sáng. Bài học lớn lao đầu tiên được dạy ở trường bí tích Hòa giải là biết sống với các Điều răn, các mối Phúc thật và Lệnh truyền yêu thương”.

Kết thúc bài huấn từ, ĐTC nhắn nhủ các linh mục:

“Các linh mục thân mến, anh em đừng quên sắp xếp cho việc ngồi tòa giải tội trong các hoạt động mục vụ của mình một cách thích đáng. Biết đón nhận và lắng nghe chính là dấu chỉ nhân văn về Thiên Chúa đang đón nhận và thương yêu con cái của Ngài. Việc xưng hết các tội giúp hối nhân biết sống khiêm nhường, nhận ra mình yếu đuối, đồng thời ý thức mình cần được Chúa tha thứ và tin rằng ơn Chúa sẽ giúp thay đổi đời sống”.


(Theo VIS)

Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2011

Lễ Truyền Tin 2011 ! Ý Nghĩa Lịch Sử và Phụng Vụ Công Giáo !


Lễ Truyền Tin
--------------------------------------------------------------------------------

L.m. Phêrô, CMC
I. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Lễ Truyền tin được mừng đầu tiên tại Giáo hội Đông phương vào Chúa nhật I mùa Vọng từ thế kỷ IV hay thế kỷ V để kính nhớ mầu nhiệm Nhập Thể. Đến thế kỷ VII, lễ này lan sang Giáo hội Tây phương để kỷ niệm Đức Trinh Nữ Maria chịu thai Ngôi Lời Nhập Thể, đồng thời kỷ niệm Chúa Kitô được xức dầu làm Thượng Tế và làm Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người. Đức Thánh Sergiô I lập bốn lễ: Lễ Đức Mẹ tịnh tẩy, dâng Con vào đền thờ, lễ Truyền tin, lễ Sinh nhật Đức Mẹ, và lễ Đức Mẹ lên trời. Mỗi dịp lễ này, ngài truyền dạy tổ chức cuộc rước Đức Mẹ từ nhà thờ Thánh Adrianô về đền thờ Đức Bà Cả tại Rôma. Thánh Phêrô Kim ngôn đã giảng nhiều trong lễ Truyền tin.
Thánh Augustinô đã đề nghị mừng lễ Truyền tin vào ngày 25 tháng 3 cho đúng chín tháng trước lễ Giáng sinh, nhưng Giáo hội Tây Ban Nha không đồng ý, nên Công đồng Toleđô năm 656 ấn định mừng tám ngày trước lễ Giáng sinh rồi đổi sang ngày 18 tháng Giêng để tránh mùa Chay. Đức Bênêđictô XIV ra sắc lệnh ấn định khắp Giáo hội mừng lễ Truyền tin vào ngày 25 tháng 3 theo Thánh Augustinô đã đề nghị và như ngày nay.
Năm 1884 Công đồng Baltimore quyết định lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3 là lễ nghỉ và lễ buộc cho Giáo hội Hoa Kỳ.

II. Ý NGHĨA PHỤNG VỤLịch Rôma thời xưa trọng thể mừng "lễ Ngôi Lời nhập thể" gọi là "Lễ Truyền tin của Chúa". Lễ này đã được sửa đổi lại nhưng là lễ mừng Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ. Mừng Chúa là Ngôi Lời trở thành Con Mẹ Maria (Mc 6:3). Mừng Đức Trinh Nữ trở thành Mẹ Thiên Chúa.

* Về Chúa Kitô, Phụng vụ Đông phương và Tây phương mừng lễ trọng này để kính nhớ "lời xin vâng" của Ngôi Lời nhập thể vào trần gian đã nói: "Lạy Chúa, này con đây. Con xin đến để thực thi ý Chúa" (xem Dt 10:7; Tv 39:8-9). Lễ này cũng kính nhớ giây phút đầu tiên của ơn Cứu chuộc và mối tơ duyên kết hợp bất khả phân ly của Thiên tính với nhân tính trong một ngôi vị của Ngôi Lời.

* Về Mẹ Maria, Phụng vụ Đông phương và Tây phương mừng lễ trọng này như một lễ của Tân Evà là Đức Trinh Nữ tuân phục và trung thành. Với lời thưa "Xin vâng quảng đại", bởi phép Chúa Thánh Thần, Mẹ đã trở nên Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ chúng sinh. Và bởi nhận trong cung lòng một Đấng trung gian (1 Tm 2:5), Mẹ thật sự trở nên Hòm bia Giao ước và Đền thờ Thiên Chúa. Phụng vụ này cũng kính nhớ thời điểm cao chót của cuộc đối thoại cứu độ giữa Thiên Chúa và loài người, và kính nhớ sự tự tình chấp nhận và hợp tác của Đức Trinh Nữ trong công trình Cứu chuộc.

III. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ

Bài đọc I: Isaia 7:10-14

Thời vua Akhaz cai trị nước Giuđêa, vua Aram và vua Ephraim định lên đánh chiếm thành Giêrusalem. Vua Akhaz hoảng sợ. Giavê sai Isaia nói với vua Akhaz: "Hãy ở yên. Đừng sợ. Lòng chớ bủn rủn". Isaia bảo vua Akhaz phải đặt lòng tin vào Giavê trong giờ nguy kịch cho triều đại Đavít. Isaia lại nói với vua Akhaz: "Hãy xin với Giavê, Thiên Chúa ngươi, một dấu". Nhưng Akhaz nói: "Tôi đâu dám xin thế. Tôi không muốn thử sức Giavê". Ngài mới nói: "Hỡi nhà Đavít, hãy nghe đây... chính Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh Con và Bà sẽ gọi tên Con là Emmanuel". Thánh sử Matthêô giải thích lời tiên tri này nói về Trinh Nữ của lễ Truyền tin là "Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1:22-23).

Bài đọc II: Do thái 10:4-10

Chức tư tế thời Cựu ước tương phản chức tư tế của Chúa Kitô: Hy lễ Cựu ước không trừ được tội lỗi, nên Chúa Kitô đã đến, hiến dâng mình Ngài duy một lần mà chúng ta được ơn cứu thoát.

Phúc âm: Luca 1:26-38

Thánh sử Luca trình thuật cuộc đàm đạo giữa thiên sứ Gabrie và Trinh nữ Maria tại căn nhà Nazaréth xứ Galilêa. Thiên sứ chào chúc Trinh Nữ "đầy ơn phúc" làm Trinh Nữ xao xuyến. Thiên sứ trấn an Trinh Nữ và loan báo "Trinh Nữ sẽ thụ thai sinh con trai sẽ gọi tên là Giêsu. Ngài là Con Đấng tối cao. Ngài sẽ lên ngai Đavít, làm vua trên nhà Giacob đến đời đời. Vương quyền Ngài vô tận". Trinh Nữ thắc mắc: "Làm sao điều đó xảy ra được vì tôi giữ mình đồng trinh". Thiên sứ giải thích: "Thánh Thần sẽ đến trên tôn nương và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên tôn nương, nên con tôn nương sẽ là Đấng Thánh là Con Thiên Chúa". Thiên sứ đưa tin bà Elizabéth già và son sẻ mà đã mang thai sáu tháng để minh chứng: "Với Thiên Chúa, không gì là không có thể". Trinh Nữ đầy lòng tin và ưng thuận.

Lễ Truyền Tin 2011 !


Lễ Truyền Tin
LM. Giuse Trương Đình Hiền

Truyền tin: Để Thiên Chúa tiếp tục ‘vào đời”

Dẫn nhập đầu lễ: Kính thưa Cộng đoàn,
Chín tháng trước lễ Giáng Sinh, Giáo Hội mừng lễ Truyền Tin.
Chúng ta vẫn thường ngộ nhận về ý nghĩa trọng tâm của mầu nhiệm Truyền Tin khi cho rằng Lễ Truyền Tin là lễ về Đức Mẹ.
Không phải thế. Cho dù Đức Maria liên kết chặt chẽ với biến cố “Ngôi Hai nhập thể làm người” để từ đó Mẹ đã trở thành “Mẹ Thiên Chúa”, Thì trung tâm của cử hành phụng vụ lễ Truyền Tin hôm nay lại chính là Ngôi Lời nhập thể, Đấng hôm nay “cất bước vào đời” với thái độ xin vâng trọn hảo: “Nầy Con xin đế để thực thi thánh ý Cha”.
Tuy nhiên, để đóng góp phần mình vào công trình cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta đặc biệt chiêm ngưỡng Đức Maria trong cung cách Mẹ nói lời xin vâng với Thiên Chúa để nhận lời cưu mang Chúa Giêsu trong cung lòng trinh khiết hầu ban ơn cứu độ cho nhân loại, cho mọi người.
Giờ đây, chúng ta hãy thành tâm sám hối để xứng đáng cử hành thánh lễ.
Giảng Lời Chúa: Nếu có lời Kinh Thánh nào được đọc nhiều nhất trên môi miệng nhân loại, thì đó chính là lời thiên sứ chào kính Trinh nữ Maria trong biến cố Truyền tin mà hôm nay Phụng vụ Lời Chúa đang công bố giữa cộng đoàn chúng ta: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà”.
Tại sao câu Lời Chúa giản đơn ấy lại được cái vinh dự lớn lao như thế ? Giản đơn, vì những lời trên có liên quan đến một mầu nhiệm vĩ đại, một biến cố “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử nhân loại: mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể làm người.
Vâng, Lời chào của thiên sứ Gabriel chính là TIN VUI trọng đại báo tin thời khắc thiêng liêng và tối ư quan trọng mà Thiên Chúa đã chuẩn bị lâu dài ngút mắt và nhân loại đã ngóng trông đến mõi mòn: Thiên Chúa chuẩn bị để hiện thực lời hứa thuở ban đầu “dòng giống người nữ sẽ đạp dập đầu ngươi”, và nhân loại mõi mòn ngóng đợi “Vị cứu tinh” quang lâm để dựng xây “vương quốc Thiên Chúa”.
Bời vì, mầu nhiệm Nhập Thể đã thực sự bắt đầu từ sau tiếng XIN VÂNG can đảm và ngoan ngùy đó: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Phụng vụ truyền Tin chợt về giữa Mùa Chay Thánh. Như vậy mầu nhiệm Truyền Tin hôm nay thật sự muốn nới gì với chúng ta ?
1. Muốn nói với chúng ta rằng: phải luôn yêu cuộc sống !Vì yêu cuộc sống nên sau lời “Xin vâng” của Đức Trinh nữ Maria, tức khắc Ngôi Lời đã trở thành một thai nhi. Con Thiên Chúa mang lấy thân phận và cuộc sống loài người. Và kể từ đó, Ngôi Hai Thiên Chúa đã bắt đầu chọn đi trên nẻo bấp bênh của kiếp phận con người: lớn lên chín tháng trong lòng mẹ như bao vạn triệu con người để rồi cất tiếng khóc oa oa chào đời giữa đêm đông giá rét. Ngài đã không chọn cách kiểu vào đời oai phong lẫm lẫm bước xuống từ trời như một thiên sứ giáng lâm, mà Ngài cần sự sống được chuyển thông từ dòng sửa mẹ, để đi ra cuộc đời bằng xác thân mỏng manh yếu đuối.
Vì yêu cuộc sống lầm than nhân loại nên Ngài không chọn gác tía lầu son để xa xôi cách biệt giữa Thiên Chúa Tối Cao với đớn hèn nhân loại, nhưng đã sẻ chia trọn vẹn phận người như ta ngoại trừ tội lỗi. Cuộc sống của Ngôi Lời quyền năng từ đây sẽ là cuộc hành trình mang theo tất cả buồn vui, âu lo, trăn trở; sẽ đong đầy nước mắt đoạn trường, sẽ dập dìu những đau thương khổ lụy. Cuộc sống của Ngài phản ảnh chính cuộc đời của Mẹ mà sau đó chẳng bao lâu đã được ông già Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu cõi lòng bà” (Lc 2, 35).
Vì yêu cuộc sống nên Ngài đâu dám xem thường lưỡi gươm truy sát của bạo chúa Hêrôđê nên đã tất tả trốn sang Ai Cập; vì yêu cuộc sống đó nên Ngài đã chấp nhận lao động vất vả bằng nghề thợ mộc để nuôi sống bản thân và phụng dưỡng cha mẹ. Vì yêu cuộc sống đó nên Ngài không cầm lòng để người chị Matta, Maria phải mất em, để mẹ già thành Naim vĩnh biệt con trai yêu dấu, để ông Giairô mất đứa con gái rượu, nên đã quyết định thi thố quyền năng “hoàn sanh cải tử”. Vì yêu cuộc sống nên Ngài cảm thông nổi thất vọng ê chề của những người phong cùi, mù què, câm, điếc, quỷ ám, bại liệt…nên đã ra tay phục hoạt chữa lành. Vì yêu cuộc sống nên Ngài đã đem niềm hy vọng làm lại cuộc đời cho Mai-đệ-liên, xóa đi nổi hổ thẹn ê chề của người phụ nữ ngoại tình bị loài người kết án. Vì yêu cuộc sống nên Ngài đã động lòng xót thương mấy ngàn người bơ vơ như chiên không người chăn và đã làm phép lạ bánh, cá hóa nhiều để cho họ no lòng chắc dạ trên đường từ hoang mạc về nhà…Và vì yêu cuộc sống, cuộc sống vĩnh cửu của mọi con người, nên Ngài đã chấp nhận “trở thành hạt lúa mì chôn vào lòng đất” qua cái chết tủi nhục đau thương để rồi sống lại trong vinh quang bất diệt.

Và Lời Chúa hôm nay còn nói gì với ta nữa ?

2/. Muốn nới với chúng ta rằng: phải luôn yêu con người.
Mầu nhiệm Truyền tin hôm nay đã hiện thực hóa chính lời ngôn sứ Isaia báo trước: “Nầy đây một Trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.(BĐ 1)
Emmanuen: đó chẳng phải là: khi dấn bước vào đời, Con Thiên Chúa muốn đích thân kết bạn với chúng ta cho dù tội lỗi đã làm cho ta mất đi khuôn mặt giống ảnh hình Thiên Chúa.
Emmanuen: đó chẳng phải là: khi mang lấy khuôn mặt loài người, Ngôi Lời đã dạy chúng ta phải yêu thương con người, bởi vì kể từ biến cố nầy, khuôn mặt của nhân loại sẽ lại được tái tạo sao cho giống ảnh hình của Thiên Chúa, con của một Cha, anh em một nhà, cho dù khác nhau về màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, ý thức hệ…
Trong một thế giới mà nạn tàn sát sự sống thai nhi đã đến hồi nghiêm trọng cảnh báo, một thế giới mà quyền sống và tự do của con người vẫn bị chà đạp, nạn chiến tranh, khủng bố, bạo lực lan tràn khắp chốn…, thì “Sứ điệp Truyền Tin” hôm nay quả thật cần thiết để suy niệm và thực hành, để lắng nghe và cầu nguyện để sống và làm chứng ! Bước theo Ngôi Lời nhập thể, chúng ta yêu cuộc sống, yêu con người, chúng ta tích cực dấn thân để vun đắp nền “văn minh sự sống” và can đảm nói không với mãnh lực của nền văn hóa sự chết.
3. Và điều cuối cùng mà sứ điệp Phụng vụ hôm nay nhắn gởi đó chính là: Hãy luôn trở thành địa chỉ đáng tin cậy để Thiên Chúa tiếp tục truyền tin.
Ở Na-da-rét trong thời gian cách nhau chỉ 6 tháng nhưng đã có hai cuộc Truyền tin: Truyền tin cho Giacaria và truyền tin cho Đức Mẹ. Giacaria bị câm vì hồ nghi Tin vui của Thiên Chúa. Trong khi đó Đức Maria đã mở miệng xin vâng và sau đó là lời ca khen chúc tụng với bài Magnificat. Đến với Mẹ Maria, quả thật, thiên sứ Gabriel đã tìm đúng địa chỉ.
Bởi vì, như lời nhạc trong ca khúc của Trầm Hương, “Mẹ thưa xin vâng, xin vâng trọn thánh ý Chúa Cha, Mẹ thưa xin vâng với Tin Mừng của Con Chí Thánh. Mẹ thưa xin vâng với tác động của Chúa Thánh Linh…”, cho nên kể “từ lúc Mẹ nói lời xin vâng, Mẹ trở nên Thánh Mẫu tuyệt vời…kỷ nguyên mới đã đến trong đời…Ngôi Lời Thiên Chúa đến với nhân loại…Huyền diệu quá muôn đời tiếng Xin Vâng” !
Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục “truyền tin” và Ngài vẫn luôn cần những địa chỉ như thế để Lời Thiên Chúa được đón nhận và thực hiện.
Lễ Truyền Tin về giữa Mùa Chay thánh, mùa Phụng vụ âm vang tiếng Chúa mời gọi chúng ta sám hối và tin vào Tin Mừng, mùa của thống hối ăn ăn, mùa của đổi mới cuộc đời, quay trở về với Chúa, với anh em, với sứ điệp tình yêu của Chúa Giêsu, với con đường của hy sinh thập giá và hy vọng phục sinh. Cùng với lời gọi mời của Mùa Chay thánh đó, sứ điệp Truyền Tin hôm nay đang khơi dậy nơi chúng ta lời “Xin Vâng” của Ngôi Lời Nhập Thể: “Nầy con xin đến để thực thi thánh ý Cha”, lời “xin vâng” của Mẹ Maria, khi Mẹ chấp nhận chia sẻ và đi trên con đường cứu độ của Con từ những tháng năm tất tả khổ cực của Bê Lem, Na-da-rét cho đến đĩnh đồi Núi Sọ khi chứng kiến cái chết nhục hình của Con Mẹ trên thập giá.
Và như thế, sống Mùa Chay Chay hay sống sứ điệp Truyền Tin đó chính là hãy biến mình thành một địa chỉ đáng tin cậy như Đức Maria để Thiên Chúa tiếp tục “truyền tin” cứu độ, để Thiên Chúa tiếp tục vào đời bằng đôi mắt, đôi tay, bằng trái tim và khối óc của chính chúng ta như ngụ ý của một bài thơ:
Mẹ Maria cho Thiên Chúa một thân xác, hình hài để mắt trần có thể nhìn thấy, để Ngài chạm đến vết thương đau của những người phong cùi. Mẹ Maria cho Thiên Chúa đôi tay để chúc lành các trẻ thơ bé nhỏ, để làm phép lạ nuôi đám đông no nê. Mẹ Maria cho Thiên Chúa đôi chân để đi đến với người đau yếu, để kiếm tìm người tội lỗi. Mẹ cho Thiên Chúa đôi mắt để khóc thương bên nấm mồ người bạn, để nhìn vào tận đáy lòng con người. …
Lạy Mẹ Maria, Xin Mẹ giúp chúng con biết sống xin vâng như Mẹ với trái tim thảo hiền. Amen.



Thứ Hai, 14 tháng 3, 2011

Lời Sống mỗi ngày mùa chay 2011 !


Làm cho chính Ta (14.3.2011 – Thứ hai Tuần 1 Mùa Chay)


Làm cho chính Ta

Lời Chúa: Mt 25, 31-46

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” Ðể đáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Rồi Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom.” Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc là trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.” Thế là họ sẽ ra đi, bọn này để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính, để hưởng sự sống muôn đời.”

Suy niệm:
Thi hào Tagore trong tập thơ Gitanjali, bài số 50,
có kể chuyện một người ăn xin, tình cờ gặp nhà vua đi trên cỗ xe.
Anh đầy tràn hy vọng khi cỗ xe dừng lại gần anh, và nhà vua bước xuống.
Anh cứ nghĩ nhà vua sẽ cho anh thật nhiều, nhưng ngài lại chìa tay xin anh.
Người hành khất biết lấy gì mà cho, anh chỉ dâng ngài một hạt lúa nhỏ xíu.
Đến lúc chiều về, khi đổ những thứ trong bị ra, anh thấy một hạt vàng rất nhỏ.
Anh khóc vì tiếc mình đã không cho ngài tất cả những gì mình có.
Có khi nào nhà vua giàu có ngửa tay xin một người ăn mày không ?


Hơn nữa, có khi nào Đức Kitô ẩn mình dưới dạng một người ăn xin không ?
Trên chuyến xe lửa đi về vùng Darjeeling ở chân núi Hy-mã-lạp-sơn, năm 1946,
Chị Têrêsa Calcutta đã nhận được một ơn gọi thứ hai, dù chị đang tu ở dòng Loreto.
“Chính trong chuyến xe lửa đó, tôi đã nghe tiếng gọi bỏ tất cả
và theo Ngài vào khu ổ chuột – phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất.”
Chị đã viết như thế, và chị còn giải thích thêm :
“Thiên Chúa gọi tôi để làm giảm cơn khát của Đức Giêsu
bằng cách phục vụ Ngài nơi người nghèo nhất trong số các người nghèo.”
Chị Têrêsa được ơn gặp Đức Giêsu Kitô đang đói khát, đang ở khu ổ chuột.
Chị đã cho Ngài tất cả và chị không bao giờ phải ân hận về chuyện đó.


Bài Tin Mừng hôm nay hẳn đã chi phối đời của chân phước Têrêsa Calcutta.
Bài này cũng hợp với Mùa Chay, mùa chia sẻ, mùa làm việc bác ái.
Hơn nữa bài này vén mở cho ta thấy một lối hiện diện khác của Đức Giêsu.
Ngài không chỉ hiện diện nơi tấm bánh thánh, nơi tâm hồn ta, nơi Giáo hội,
mà Ngài còn ở nơi những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù.
Khuôn mặt của Ngài xem ra chẳng có gì cao quý, uy nghi, sáng láng,
nhưng đầy nét đau khổ, nhục nhằn, phiền muộn.
Đức Giêsu ở đây không phải là người ban phát đầy quyền năng,
mà là người ăn xin yếu đuối ngửa tay cần ta giúp đỡ.
“Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây,
là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (c. 40).
Ngài gọi những người khốn cùng trong xã hội là anh em nhỏ nhất của Ngài.
Làm cho họ là làm cho chính Ngài, chối từ họ là chối từ chính Ngài.
Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu.
Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tỵ nạn,
nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.
Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.

Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.



Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Những Cơn Cám Dỗ ngọt ngào muôn thuở !





Cám dỗ

Đã mang thân phận con người, chẳng ai thoát khỏi cám dỗ. Cám dỗ luôn thường trực trong cuộc sống hằng ngày, như tấm lưới mạng nhện khổng lồ sẵn sàng chụp xuống để bao bọc và giết chết con mồi. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”, đối diện với cám dỗ cũng là dịp để chúng ta khẳng định mình, nhờ đó mà có thêm kinh nghiệm trên bước đường trần gian.

Cám dỗ là gì?

– Là khơi dậy lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã (Từ điển bách khoa W).
– Là tìm mọi cách quyến rũ làm việc gì không hay (Từ điền từ và ngữ Việt Nam – Nguyễn Lân, nxb Tp HCM 1998).

Hai định nghĩa trên cho thấy động lực của cám dỗ đều là xấu, đi ngược lại với luân thường đạo lý và để lại những hậu quả không tốt nơi bản thân cũng như nơi những người xung quanh.
Cám dỗ chẳng buông tha ai. Khi suy nghĩ về cuộc đời, cụ Tú Xương đã phải thốt lên:
“Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà”.
Đối với cụ Tú Xương, là người vui với rượu, buồn với trăng và chí thiết cùng thơ, chỉ có “ba cái lăng nhăng” được nhận diện trong một đại dương những cám dỗ đang muốn nhấn chìm con người. Trong thực tế, những cơn cám dỗ không dừng lại ở con số thống kê, nhưng nó đa dạng, muôn màu muôn vẻ. Cám dỗ thường núp bóng dưới những ngôn từ bóng bẩy và những lời mời chào đường mật. “Mật ngọt chết ruồi”, biết bao người đã dại dột ảo tưởng nghe theo và khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn màng. Trong thời buổi kinh tế thị trường, những cơn cám dỗ cũng kèm theo một “nghệ thuật tiếp thị” với những viễn tượng huy hoàng đầy ma lực hấp dẫn. Xin đưa ra vài nhận định về những loại hình cám dỗ trong cuộc sống hôm nay.
1- Loại hình cám dỗ thứ nhất là phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa
Núp dưới những danh từ rất ấn tượng như “nhân bản”, “tự do”, “giải phóng”, một số người muốn phủ nhận Thiên Chúa và tuyên dương chủ nghĩa vô thần. Họ hô to khẩu hiệu: “Thiên Chúa đã chết”, hoặc “Tôn giáo là thuốc phiện mê dân”. Họ coi con người chính là những “thượng đế”. Họ phủ nhận mọi tôn giáo cũng như các thần linh. Đây cũng là cơn cám dỗ của ông bà nguyên tổ Ađam và Evà. Con rắn đã dùng những lời ngọt nào để dụ dỗ ông bà bỏ qua lệnh truyền của Chúa. Vì muốn được ngang hàng với Thiên Chúa, ông bà đã phủ nhận thân phận thụ tạo của mình. Khi muốn “biết sự thiện sự dữ”, ông bà không chỉ muốn trở nên những người khôn ngoan, nhưng còn muốn nắm quyền bá chủ, vì biết sự thiện sự ác là vai trò của một quan tòa, nhằm đưa ra những kết luận để tuyên phạt các tội nhân. Trong xã hội hôm nay, do ảnh hưởng của chủ thuyết tương đối, người ta muốn cào bằng mọi tôn giáo cũng như mọi giá trị luân lý. Thiên Chúa bị xếp chung với một mớ tổng hợp các loại thần linh. Nơi một số tín hữu công giáo, đức tin cũng bị chao đảo: họ vừa tin Chúa vừa tin bói toán và mê tín dị đoan. Hiện tượng này có thể được gọi bằng một danh từ xem ra nghịch lý: tôn giáo vô thần. Bởi lẽ chúng mang danh tôn giáo mà lại không có đức tin hoặc nếu có thì đó là một đức tin cầu lợi. Thay vì tôn nhận Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên mình, con người hôm nay lại đang sáng tạo ra một “thiên chúa” dị dạng theo tham vọng của họ. Không có Thiên Chúa hiện hữu, cuộc sống này sẽ trở nên vô nghĩa. Đức Bênêđictô đã quả quyết: “Một nền nhân bản loại trừ Thiên Chúa là một nền nhân bản phi nhân” (Thông điệp Bác ái trong Chân lý, số 78).
2- Loại hình cám dỗ thứ hai là tôn thờ của cải vật chất
Trong nền kinh tế thị trường, xã hội bị biến đổi thành một cái chợ mênh mông. Chợ là nơi mà lợi nhuận là mục đích hàng đầu. Đó cũng là nơi người mua kẻ bán chẳng ai tin nhau, dù có là xóm làng thân thích. Khi cuộc sống này đã biến thành chợ, thì mọi sự đều có thể trở nên hàng hoá. Từ đất đai, nhà cửa cho đến tình nghĩa vợ chồng; từ con cá mớ rau cho đến tình thân huyết nhục. Tất cả đều có thể trở nên một món hàng để người ta mua đi bán lại. Tiền bạc vật chất đã gây ra biết xung đột khiến tình huynh đệ tương tàn, vợ chồng xa cách. Người ta vì vật chất mà đánh đổi cả tương lai, chấp nhận những cuộc hôn nhân như một canh bạc đỏ đen may rủi. Cũng vì lợi nhuận mà nhiều người chấp nhận làm những ngành nghề hái ra tiền một cách nhanh chóng, nhưng đó cũng là lý do dẫn họ vào tù. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay: “Sự tôn thờ của cải không những làm cho ta xa lìa tha nhân, mà còn làm cho con người trở nên trống rỗng, bất hạnh, bị lừa đảo, bị ảo tưởng mà không thực hiện được điều của cải hứa hẹn, vì con người đặt vật chất vào chỗ của Thiên Chúa là nguồn mạch duy nhất của cuộc sống” (Trích Sứ điệp Mùa Chay 2011). “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia… Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Đức Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh táo khôn ngoan trong việc sở hữu và sử dụng của cải nhất thời.
3- Loại hình cám dỗ thứ ba là sự hằn thù, chia rẽ
Vào thời điểm mà người ta không tin có hoạt động của ma quỷ, thì chính là lúc Satan đang hoành hành. Satan chính là kẻ nói dối, là tên sát nhân ngay từ ban đầu của lịch sử (x Ga 8,44). Trong vườn địa đàng, con rắn “ỡm ờ” nói với bà Evà: “chẳng chết chóc gì đâu, nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, điều ác” (St 3,4-5). Qua những lời kích động này, ma quỷ gieo vào lòng bà sự nghi ngờ Thiên Chúa, xem ra Thiên Chúa không thương ông bà thực sự. Dường như Ngài là “lực cản” khi ông bà muốn vươn tới hạnh phúc. Lời cám dỗ ngọt ngào của con rắn còn được minh hoạ bằng sắc đẹp và hương vị của trái cấm: “Người đàn bà thấy rằng cây đó ăn thì ngon, trông thật sướng mắt” (St 3, 6). Ngày nào cũng đi dạo trong vườn, mà chỉ hôm nay bà Evà mới thấy trái cây vừa đẹp vừa ngon! Thế rồi bà Evà đã phạm tội vì nghe “những lời có cánh” của con rắn. Tội đã chia rẽ mối thân tình giữa Chúa với ông bà. Còn đâu nữa những buổi đàm đạo với Chúa trong làn gió hiu hiu mỗi khi chiều về?. Satan cũng là kẻ cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa, nhằm mục đích phá huỷ chương trình của Thiên Chúa.

Trong mối tương quan đời thường, lý do dẫn đến chia rẽ rất đa dạng: có thể do vây cánh, họ hàng; có thể vì lợi lộc vật chất. Có trường hợp người ta chia rẽ nhau vì những lý do rất “thánh thiện”, như bất đồng quan điểm trong việc tổ chức hội đoàn, kinh lễ. Vì ích kỷ nên chẳng ai chịu ai, nên chia rẽ sinh ra từ đó.

Một loại hình cám dỗ mang ý đồ chia rẽ cũng xuất hiện qua những phương tiện thông tin. Theo tâm lý thông thường, người ta dễ tin dư luận xấu hơn là dư luận tốt. Những thông tin tiêu cực về một cá nhân lại được loan truyền nhanh hơn những thông tin tích cực. Nhiều tác giả đã không ngần ngại bẻ cong ngòi bút vì mục đích lợi nhuận hoặc vì muốn hạ bệ, tiêu diệt người khác. Không ít người đã cả nể dễ tin và rơi vào cạm bẫy của những cơn cám dỗ này.

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”

Mỗi khi Mùa Chay về, phụng vụ giới thiệu với chúng ta hình ảnh Đức Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa. Cách nói “tên cám dỗ” của Thánh Mátthêu cho thấy ma quỷ mang hình hài một con người, với những lời vừa ngọt ngào, vừa thách thức: “Nếu ông là con Thiên Chúa…”. Lời của tên cám dỗ mang cùng một âm hưởng với lời của con rắn vào thuở ban đầu của lịch sử. Bị cám dỗ về bánh ăn khi đang đói, Đức Giêsu còn bị lôi kéo để thử thách quyền năng Thiên Chúa và sở hữu quyền lực trần gian. Đức Giêsu đã chiến thắng những mưu mô của ma quỷ bằng Lời Hằng Sống và bằng niềm xác tín nơi Chúa Cha.

Khi nào thì người ta mắc tội “sa chước cám dỗ?”. Đối diện với cám dỗ, con người có tự do chấp nhận ngả theo hoặc chống lại. Cám dỗ mới chỉ là những hình ảnh, lời nói, môi trường hoàn cảnh “khơi dậy lòng ham muốn”. “Cám dỗ” trở thành “tội lỗi” khi người ta tự do ưng thuận và thoả hiệp với điều xấu. Đức Giêsu đã đối diện với cám dỗ và Người đã chiến thắng. Chúng ta cũng sẽ chiến thắng cám dỗ, nếu sống đời nội tâm sâu xa và thực thi Lời Chúa.

Đức Giêsu mời gọi chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,38). Người đang hiện diện để nâng đỡ chúng ta trong cuộc chiến cam go của hành trình nên thánh. “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, lời cầu nguyện do Đức Giêsu dạy, sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh và sự bình an.


Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Thứ Năm, 10 tháng 3, 2011

NGÔN NGỮ CỨU ĐỘ CỦA THẬP GIÁ CHÚA GIESU KITO

Phía Sau Cây Thập Giá
01/02/2011 1:40 PM

Nguyễn Hiền Nhu

Bạn đọc viếtKhông có bình luận Bạn có biết tại sao khi nghe hai chữ “thập giá” chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có khi còn dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ nghe nói đến thập giá thì nổi da gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó? Có lẽ vì chúng ta chỉ thấy những cây thánh giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn bóng hay bằng xi-măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi lên trong ta không có gì đáng sợ. Còn các môn đệ thì trái lại chưa bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc… và hai chữ này không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng.

Chính vì thế mà các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.

Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng và Chúa đòi ai muốn theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình đi, vác lấy thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau Thầy”.

Ông Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa thì Ngài lại bắt đầu nói đến thập giá. Thập giá xuất hiện ở đây như “mặt sau của tấm huân chương”. Nhưng sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, và cho các ông thấy vinh quang chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môsê và Êlia: một vị đã được Chúa dùng để công bố giao ước Sinai, vị kia thì được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước Sinai.

Theo thánh Luca thì Chúa Giêsu đàm đạo với hai vị này về cuộc xuất hành Ngài phải hoàn thành tại Giêrusalem. Như vậy thì ta có thể đảo lại: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây thập giá làm các ông run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì. Sau này trên đường Emmaus, Chúa sẽ quở trách hai người môn đệ thất vọng bỏ đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy mặt sau của cây thập giá: “Chẳng phải là Ðức Kitô phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang của Ngài sao?”

Nếu ôm lấy cây thập giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận lấy thập giá như đường tới vinh quang. Ðàng sau thập giá là vinh quang mà chỉ có đức tin mới cho ta thấy được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa ta mới tới được vinh quang ở sau cây thập giá.

Trong cuộc sống, có những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi bạn cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và những lời độc địa chát chúa của khách qua đường; bạn cảm thấy nỗi cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng giửa trời và đất; bạn khát khô cổ muốn có một lời an ủi, một chút cảm thông, nhưng quanh bạn chỉ có thờ ơ và thinh lặng, hoặc tệ hơn nữa chỉ có phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy bạn mới cảm thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập giá. Có khi bạn cảm thấy chán nản muốn buông xuôi tất cả. Bạn cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải kêu lên: “Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ con…”

Những lúc ấy bạn phải vận dụng hết sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng đức tin, để thấy được đàng sau cây thập giá. Bạn hãy nhìn thẳng vào Ðấng đang vác thập giá đi đàng trước bạn, chớ rời mắt xa Ngài.

Nhưng bạn đừng chờ tới lúc đó mới nhìn vào Ngài. Bạn phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi mọi lúc, mọi việc. Bạn hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài, và trong Ngài.

Nếu bạn biết sống với Ngài trong niềm vui,

bạn cũng biết sống với Ngài trong nỗi buồn.

Nếu bạn biết sống trong Ngài khi hạnh phúc,
bạn cũng biết sống trong Ngài lúc khổ đau.

Nếu bạn biết sống với Ngài trong ngày hội,
bạn cũng biết sống với Ngài giữa cô đơn.

Ðiều tôi muốn nhắc bạn ngàn lần là bạn đừng mang thập giá một mình. Bạn sẽ không bước nổi đâu, và nếu bạn có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá của bạn chỉ là cây gỗ chết thôi. Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang Con Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống mà thôi:

“Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài…” (2Tim 2,11)

Nhưng tôi cũng nhắc bạn rằng thường khi thập giá đè nặng lên vai thì chúng ta cũng tối tăm mắt mũi, hầu như chẳng còn nhớ ra điều gì, chẳng nhớ đến ai nữa. Cái khó nhất là ở đó. Chính lúc ta cần nhớ đến Chúa nhất thì hầu như ta không nhớ nổi. Chính lúc ta cần cảm nhận sự hiện diện của Chúa nhất, thì lại là lúc Chúa như ở xa ngàn trùng và lẩn trốn trong bóng đêm dày đặc. Ðó là khi mà cuộc đời bạn trở nên phong phú nhất, như hạt giống khi được vùi xuống đất. Lúc ấy bạn hãy giữ lòng mình hướng về ánh sáng của thảo mộc, và khi mầm lách được vỏ hạt giống thì nó xé qua màn đêm của lòng đất để vươn lên ánh sáng, hứng lấy màu xanh và sức sống. (Còn hạt giống nào nằm khơi khơi trên mặt đất thì có nẩy mầm cũng héo khô)


LM Nguyễn Công Đoan SJ

NGÔN NGỮ CỨU ĐỘ CỦA THẬP GIÁ CHÚA GIE6SU KITO


Phía Sau Cây Thập Giá
01/02/2011 1:40 PM

Nguyễn Hiền Nhu

Bạn đọc viếtKhông có bình luận Bạn có biết tại sao khi nghe hai chữ “thập giá” chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có khi còn dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ nghe nói đến thập giá thì nổi da gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó? Có lẽ vì chúng ta chỉ thấy những cây thánh giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn bóng hay bằng xi-măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi lên trong ta không có gì đáng sợ. Còn các môn đệ thì trái lại chưa bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc… và hai chữ này không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng.

Chính vì thế mà các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.

Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng và Chúa đòi ai muốn theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình đi, vác lấy thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau Thầy”.

Ông Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa thì Ngài lại bắt đầu nói đến thập giá. Thập giá xuất hiện ở đây như “mặt sau của tấm huân chương”. Nhưng sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, và cho các ông thấy vinh quang chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môsê và Êlia: một vị đã được Chúa dùng để công bố giao ước Sinai, vị kia thì được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước Sinai.

Theo thánh Luca thì Chúa Giêsu đàm đạo với hai vị này về cuộc xuất hành Ngài phải hoàn thành tại Giêrusalem. Như vậy thì ta có thể đảo lại: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây thập giá làm các ông run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì. Sau này trên đường Emmaus, Chúa sẽ quở trách hai người môn đệ thất vọng bỏ đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy mặt sau của cây thập giá: “Chẳng phải là Ðức Kitô phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang của Ngài sao?”

Nếu ôm lấy cây thập giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận lấy thập giá như đường tới vinh quang. Ðàng sau thập giá là vinh quang mà chỉ có đức tin mới cho ta thấy được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa ta mới tới được vinh quang ở sau cây thập giá.

Trong cuộc sống, có những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi bạn cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và những lời độc địa chát chúa của khách qua đường; bạn cảm thấy nỗi cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng giửa trời và đất; bạn khát khô cổ muốn có một lời an ủi, một chút cảm thông, nhưng quanh bạn chỉ có thờ ơ và thinh lặng, hoặc tệ hơn nữa chỉ có phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy bạn mới cảm thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập giá. Có khi bạn cảm thấy chán nản muốn buông xuôi tất cả. Bạn cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải kêu lên: “Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ con…”

Những lúc ấy bạn phải vận dụng hết sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng đức tin, để thấy được đàng sau cây thập giá. Bạn hãy nhìn thẳng vào Ðấng đang vác thập giá đi đàng trước bạn, chớ rời mắt xa Ngài.

Nhưng bạn đừng chờ tới lúc đó mới nhìn vào Ngài. Bạn phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi mọi lúc, mọi việc. Bạn hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài, và trong Ngài.

Nếu bạn biết sống với Ngài trong niềm vui,

bạn cũng biết sống với Ngài trong nỗi buồn.

Nếu bạn biết sống trong Ngài khi hạnh phúc,
bạn cũng biết sống trong Ngài lúc khổ đau.

Nếu bạn biết sống với Ngài trong ngày hội,
bạn cũng biết sống với Ngài giữa cô đơn.

Ðiều tôi muốn nhắc bạn ngàn lần là bạn đừng mang thập giá một mình. Bạn sẽ không bước nổi đâu, và nếu bạn có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá của bạn chỉ là cây gỗ chết thôi. Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang Con Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống mà thôi:

“Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài…” (2Tim 2,11)

Nhưng tôi cũng nhắc bạn rằng thường khi thập giá đè nặng lên vai thì chúng ta cũng tối tăm mắt mũi, hầu như chẳng còn nhớ ra điều gì, chẳng nhớ đến ai nữa. Cái khó nhất là ở đó. Chính lúc ta cần nhớ đến Chúa nhất thì hầu như ta không nhớ nổi. Chính lúc ta cần cảm nhận sự hiện diện của Chúa nhất, thì lại là lúc Chúa như ở xa ngàn trùng và lẩn trốn trong bóng đêm dày đặc. Ðó là khi mà cuộc đời bạn trở nên phong phú nhất, như hạt giống khi được vùi xuống đất. Lúc ấy bạn hãy giữ lòng mình hướng về ánh sáng của thảo mộc, và khi mầm lách được vỏ hạt giống thì nó xé qua màn đêm của lòng đất để vươn lên ánh sáng, hứng lấy màu xanh và sức sống. (Còn hạt giống nào nằm khơi khơi trên mặt đất thì có nẩy mầm cũng héo khô)


LM Nguyễn Công Đoan SJ

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011

Sống Mùa Chay Thánh 2011 ! Tạ ơn Chúa. Lm Inhaxio Trần Ngà

TÂM TÌNH MÙA CHAY


--------------------------------------------------------------------------------

THỨ TƯ LỄ TRO

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

"Cá thì dễ ươn, thây ma dễ thối, con người dễ hư."


Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối. Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi nhà vua sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả chồng bà là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II S 11) Rồi ngay cả con vua Đa-vít là Salômôn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng quá mê đắm xác thịt, có đến bảy trăm thê thất và ba trăm hầu thiếp, xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I V 11, 1-13). Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối : hư thối vì tham nhũng, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…

Triết gia Platon diễn tả thân phận con người "như cỗ xe có hai ngựa kéo". Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau. Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của ngài: "Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét", …thật khốn thân tôi!”

Nhân loại phải mất hàng triệu năm tiến hoá mới có thể thoát ra khỏi hang động và đời sống man rợ, nhưng con người ngày nay chỉ cần vài phút yếu lòng là có thể trở về với đời sống man rợ đó. Dường như thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.

Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su.

Cuộc đời chúng ta cũng giống như những con thuyền bơi ngược dòng, phải luôn luôn vững tay chèo lái, phải luôn quyết tâm vươn về nguồn mà không để đời mình trôi xuôi theo dục vọng, thì mới có thể tiến về nguồn là Chúa Ki-tô. Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.

Khi làm người, Chúa Giê-su mang thân phận con người hoàn toàn y như chúng ta. Ngài cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Ngài cũng đã từng chịu, có khác là Ngài đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Ngài luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15). Y chí chúng ta vốn mềm yếu. Xác thịt thì quá nặng nề. Đam mê tội lỗi luôn thôi thúc lôi kéo chúng ta xuống vực. Những quyến rũ ở đời dễ làm chúng ta ươn thối… Chúng ta thừa biết rằng tự sức mình, chúng ta không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ. Vậy trong mùa chay nầy, chúng ta hãy vào sa mạc tâm hồn mà chiến đấu cùng Chúa Giê-su, với Chúa Giê-su. Hãy luôn kết hiệp với Chúa Giê-su, hãy để cho lời Ngài nên khí cụ giúp ta chiến đấu. Hãy rước lấy Mình Máu thánh Ngài hằng ngày để kết hiệp gắn bó với Ngài hơn. Và một khi có Ngài ở bên chúng ta, ở trong chúng ta, cùng chiến đấu với chúng ta thì chúng ta mới có thể chiến thắng được tội lỗi và trung thành đi theo đường lối Thiên Chúa như Ngài.

Sống Mùa Chay Thánh 2011 ! Tạ ơn Chúa.

TÂM TÌNH MÙA CHAY


--------------------------------------------------------------------------------

Ý NGHĨA MÙA CHAY

I. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ MÙA CHAY
Trong tiếng La-tinh, Mùa Chay là QUADRAGESIMA, từ nầy có nghĩa là “40”. Trong Mùa Chay, chúng ta cùng sống với Đức Kitô 40 ngày trong sa mạc, để trải qua cuộc hành trình 40 năm của dân It-ra-en tiến về Đất hứa. Trong suốt thời gian dài đằng đẳng nầy, đoàn dân ông Mô-sê lãnh đạo thường phải đói khát, đôi khi nản chí và lắm lần quị ngã bất trung. Nhưng đặc biệt, chính trong cuộc “trường hành” nầy, họ đã có được cái kinh nghiệm độc nhất vô nhị về sự dạy bảo và lòng ưu ái thiết tha của Thiên Chúa dành cho họ.

Cuộc trải nghiệm đó cũng chính là kinh nghiệm thân mật với Chúa mà tất cả cộng đoàn Dân Mới, những người đã chịu phép rửa, cũng như các Dự Tòng, muốn sống một lần nữa trong lúc lên đường chuẩn bị mừng Đại Lễ Phục sinh, và để tìm được trong đó niềm vui của tâm hồn được thanh luyện, khi thông hiệp với Đức Kitô Đấng đã hoàn tất cuộc Vượt Qua bằng cái chết và sự sống lại của mình.

Trong Mùa Chay, Dân Chúa bắt đầu một cuộc cố gắng tuy đòi hỏi nhưng đem lại sự giải thoát, đưa họ tới chỗ lắng nghe tiếng gọi của Chúa cũng như tiếng kêu của cộng đồng nhân loại. Khi họ tự cắt giảm những của ăn trần thế, dưới những hình thức khác nhau, họ sẽ học biết cách thưởng thức hơn Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể ; đồng thời cũng am hiểu hơn những nghĩa vụ của sự sẻ chia bác ái huynh đệ.

Ngày xưa, khi bước vào Mùa Chay, Hội Thánh nhấn mạnh đến những cách thế hy sinh hãm mình. Ngày nay, Hội Thánh nhắc lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa của công việc đó. Việc hy sinh hãm mình trong Mùa Chay qui hướng về Thiên Chúa , tôn vinh Người, đồng thời cũng qui hướng về tha nhân, để lưu tâm giúp đỡ, sống tình bác ái huynh đệ.

Khi ăn chay hãm mình như thế,chúng ta chứng tỏ một cách hùng hồn lòng tuân phục khiêm tốn của người môn đệ Đức Kitô đối với hai giới răn yêu mến. Bài Kinh Tiền Tụng thứ III của Mùa Chay đã tìm được lời lẽ thích hợp để nói lên điều đó như sau :

“Cha dạy chúng con là những kẻ tội lỗi phải ăn chay hãm mình, làm của lễ hy sinh đền tạ. Như vậy, chúng con vừa bớt được tính kiêu căng, vừa biết noi gương Cha từ bi nhân hậu, mà chia cơm xẻ áo cho kẻ đói nghèo…”

Đối với tất cả những ai không đóng cửa lòng lại, nhưng lắng nghe tiếng Chúa, thì ngay từ bây giờ, Hội Thánh hứa hẹn là khi đi hết độ đường trong ánh sang Đêm Thánh, “họ sẽ được tràn đầy ân sủng mà Chúa dành sẵn cho con cái thảo hiền”.

II. SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG MÙA CHAY
Khi một con người, vào lúc nào đó trong đời, bừng tỉnh dậy trước đức tin và khám phá ra Đức Kitô, nếu muốn bước vào sự hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh, họ cần được chuẩn bị và học hỏi.

Hơn nữa, không người kitô hữu nào có thể tự hào rằng vì mình đã sống lâu năm trong đức tin, nên đã biết đầy đủ về mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, và đã chuẩn bị sẵn sàng để tham dự mầu nhiệm ấy.

Do đó, chúng ta phải qua 6 tuần lễ liên tục, vượt qua chặng đường 40 ngày để chuẩn bị lễ Phục Sinh. Sáu tuần lễ chăm chú lắng nghe Lời Chúa và tăng cường tập luyện sống đức tin chính là trọng tâm ý nghĩa thiêng liêng và định hướng sống đạo của Mùa Chay thánh.

Đối với các Dự Tòng sắp lãnh nhận các bí tích gia nhập Kitô giáo vào dịp Phục sinh, thì mấy tuần lễ nầy là thời gian tối quan trọng và cần thiết. Đây chính là thời điểm mà mầu nhiệm Kitô giáo, dưới ánh sáng của Lời Chúa, được trình bày cho họ trong tất cả vẽ rực rỡ của chân lý cứu rổi, và với tất cả những đòi hỏi nghiêm túc của hành trình đức tin. Bởi vì thời gian nầy cũng chính là lúc họ phải chấp nhận đời sống trong Hội Thánh như một cuộc dấn thân đi theo Chúa Kitô và phụng sự Người.