Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2011

CÁO PHÓ CON ĐỨC CHÚA TRỜI TỬ NẠN !


CÁO PHÓ


Trong niềm tin vào tình thương của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, chúng tôi thành kính báo tin cùng các anh em môn đệ, thân bằng quyến thuộc, bạn hữu xa gần và toàn thể nhân loại:

Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, Thầy, Người Yêu và Bạn của chúng tôi là:

GIÊSU KITÔ

Đã được CHA gọi về vào giờ thứ chín ngày Lễ Vượt Qua, khoảng năm 26 sau Công Nguyên (AD), tại Giêrusalem, hưởng thọ 33 tuổi.

Nghi thức hạ xác, tẩm liệm sẽ được tổ chức trên đồi Golgotha, sau đó linh cửu sẽ được mai táng trong mồ đá gần đó.

Ngày giờ có thể đi viếng mộ: sau ngày Sa-bát, ngày thứ nhất trong tuần (nếu bạn sống ở thế kỷ 21 hãy đến thăm viếng vào Tam Nhật Thánh tại các nhà thờ Công giáo).
Kính xin mọi người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa Cha đã ban Con Một của Ngài xuống thế để cứu chuộc nhân loại.


--------------------------------------------------------------------------------

TIỂU SỬ CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ

- Họ và tên: J.hoschua (tiếng Do Thái) hoặc Jesua hay Jesu (tiếng Aramê), Giêsu (tiếng Việt)
- Danh hiệu: "Messiah" có nghĩa là "Đấng được sức dầu"
- Quốc tịch: Do thái, thuộc hoàng tộc David.
- Năm sinh: năm 7 trước Công Nguyên (trước khi vua Herôđê băng hà ít lâu: 4 năm trước CN)
- Nơi sinh: chuồng chiên, tại Belem.
- Nơi rửa tội: sông Gio-đan.
- Nơi thường trú: Nazareth.
- Ngôn ngữ: tiếng Aramê của miền Galilêa.
- Cha mẹ trần thế: Giuse và Maria.
- Cha thiên quốc: Chúa Cha
- Ngày chịu phép cắt bì: 8 ngày sau khi sanh
- Ngày tiến dâng cho Thiên Chúa: năm 12 tuổi
- Nghề nghiệp: thợ mộc (teknos), nghề của cha Giuse, nhưng hành nghề chữa bệnh rất giỏi.
- Gia tài: Không có gì, ngoài chiếc giường duy nhất là cây thánh giá gỗ.
- Học vấn: tại gia, trường Giuse-Maria, không bằng cấp, chỉ biết dùng ngón tay viết trên cát, nhưng được mọi người gọi là Master.
- Tình trạng gia cảnh: độc thân.
- Hoạt động công khai: năm 30 tuổi.
- Địa bàn hoạt động: giảng dạy khắp nơi, nhưng phần lớn chung quanh hồ Galilêa, mà trọng tâm là thành phố ngư phủ Capharnaum. Thời gian hoạt động chừng 2 năm rưỡi.
- Đề tài rao giảng: Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến.
- Bài giảng đầu tiên: Bài giảng trên núi về Tám Mối Phúc Thật
- Các Môn đệ: dù không phải là Rabbi, nhưng Ngài đã chọn ra 12 Tông đồ là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông; ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô; ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Chúa Giêsu cho các thượng tế.
- Các phép lạ: nước hóa thành rượu, năm chiếc bánh và hai con cá nuôi năm ngàn người ăn, chữa lành các bệnh tật, trừ quỷ, cho người chết sống lại...
- Bữa tiệc sau cùng: Bữa Tiệc Ly
- Tội phạm: Giới thẩm quyền Do thái đã tố cáo Ngài phạm thượng, dám xưng mình là Con Thiên Chúa.
- Bản án: Chính quyền Roma, đại diện là Pontio Philatô, đã lên án Ngài và cho đóng đinh vào thập giá.
- Hành quyết: bị đóng đinh sau trưa ngày lễ Vượt Qua, tại một nơi nằm ngoài vòng đai thủ đô Giêrusalem.
- Mai táng: trong mồ đá, tại một chỗ không xa nơi hành quyết.
- Nơi chết: Trên đồi Golgôtha
- Các biến cố lịch sử trong đời: Giáng sinh tại Bêlem, chịu phép rửa trên sông Giođan, biến hình trên núi Tabo, chịu chết trên đồi Gôlgotha, sống lại từ cõi chết, và lên trời.
- Bảy lời sau cùng: "Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng" (Luke 23:32-34), "Ngày Hôm Nay Con Sẽ Ðược Ở Với Ta Trên Nước Thiên Ðàng" (Luke 23:35-43), "Này Bà, đây là con Bà!" (Gioan 19:16-27), "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi, nhân sao Chúa bỏ tôi" (Mathêu 27:45-47 Maccô 15:33-36), "Ta Khát" (Gioan 19: 28-29), "Mọi Sự Ðã Hoàn Tất" (Gioan 19:30-37), "Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha." (Luke 23:44-56)
- Tấm gương kỳ cục nhất: Rửa chân cho các môn đệ.
- Lời sau cùng trước khi về trời: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
- Dấu tích đặc biệt: Năm dấu thánh.
- Tác phẩm để đời: Lời, Mình và Máu Thánh mang lại sự sống đời đời cho nhân loại.
- Biến cố vĩ đại sắp làm: Đến lần thứ hai trong vinh quang.

Tang gia đồng khấp báo. Cáo phó này thay thế thiệp tang. Xin miễn phúng điếu và tặng vòng hoa. Nếu có lòng hảo tâm, xin dùng tiền vào việc bác ái giúp người nghèo.

Đại diện:
Tông đồ Phêrô - Email liên lạc: chuadasonglaithat@alleluia.net

Cát Minh

Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011

Giới Thiệu trang Thánh Kinh ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng


CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY NĂM A
Ed 37,12-14 ; Rm 8,8-11 ; Ga 11,1-45

BÀI ĐỌC I : Ed 37,12-14

Đức Chúa là Thiên Chúa phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en.13 Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta.14 Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa.

ĐÁP CA : Tv 129
Đ. Chúa luôn luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
(x c 7bc)

1 Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, 2 muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu.

3 Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng ? 4 Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài.

5 Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người. 6a Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông.

6b Hơn lính canh mong đợi hừng đông, 7 trông cậy Chúa đi, Ít-ra-en hỡi, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa. 8 Chính Người sẽ cứu chuộc Ít-ra-en cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn.

BÀI ĐỌC II : Rm 8,8-11

8 Thưa anh em, những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.9 Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô.10 Nhưng nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính.11 Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.

TUNG HÔ TIN MỪNG : Ga 11,25-26a
Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống ; ai tin vào Thầy sẽ không phải chết bao giờ.

TIN MỪNG : Ga 11,1-45

1 Hồi đó, có một người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a.2 Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là em của cô.3 Hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng."4 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh."
5 Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô.
6 Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở.7 Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: "Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê! "8 Các môn đệ nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao? "9 Đức Giê-su trả lời: "Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời.10 Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình! "
11 Nói những lời này xong, Người bảo họ: "La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây."12 Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại."13 Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường.14 Bấy giờ Người mới nói rõ: "La-da-rô đã chết.15 Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy."16 Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn đồng môn: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy! "
17 Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi.18 Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số.19 Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời.20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà.21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.22 Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy."23 Đức Giê-su nói: "Em chị sẽ sống lại! "24 Cô Mác-ta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết."25 Đức Giê-su liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.26 Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không? "27 Cô Mác-ta đáp: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian."
28 Nói xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: "Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy! "29 Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su. 30 Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta đã ra đón Người.31 Những người Do-thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
32 Khi đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết."33 Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến.34 Người hỏi: "Các người để xác anh ấy ở đâu? " Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem."35 Đức Giê-su liền khóc.36 Người Do-thái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy! "37 Có vài người trong nhóm họ nói: "Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư? "38 Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại.39 Đức Giê-su nói: "Đem phiến đá này đi." Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày."40 Đức Giê-su bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao? "41 Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: "Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con.42 Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con."43 Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! "44 Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi."
45 Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.

SỰ SỐNG ĐÍCH THỰC
CHỈ TRONG ĐỨC KI-TÔ GIÊ-SU PHỤC SINH


Chúa nhật trước, Đức Giê-su mở mắt cho người mù từ thuở mới sinh (x Ga 9,1-41), và ta đã hiểu đó là dấu chỉ Ngài thực hiện cuộc tái tạo, vì Ngài biết “lương bổng của tội là sự chết” (Rm 6,23). Nó làm cho mắt tâm hồn loài người bị mù khởi đi từ tội nguyên tổ Adam-Eva. Do đó để cứu loài người, Ngài phải làm cho mọi người được sáng mắt, hầu nhận biết “đâu là hy vọng nhờ ơn Ngài kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao, Ngài đã thi thố cho các Ki-tô hữu. Đó là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực mà Ngài đã biểu dương khi sống lại từ cõi chết, rồi về trời hằng ngự bên hữu Chúa Cha chuyển cầu cho chúng ta thoát tay tử thần” (Ep 2,18t).

Bởi vậy giáo lý Chúa nhật này đề cập đến việc Đức Giê-su ban Thần Khí của Ngài cho chúng ta để ta được sự sống đích thực – sự sống Phục Sinh – qua dấu chỉ Ngài làm cho La-da-rô đã chết bốn ngày cũng được sống lại.
Ta lại biết, theo Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su làm bảy việc lạ lùng :

Nước lã thành rượu ngon (x Ga 2).
Cứu sống con vị quan chức (x Ga 4,43t).
Chữa người bất toại đã 38 năm ( x Ga 5,1t).
Hóa bánh nuôi dân (x Ga 6,1t).
Chúa đi trên mặt biển (x Ga 6,16t).
Chúa mở mắt cho kẻ mù (x Ga 9,1-41).
Chúa phục sinh La-da-rô (x Ga11, 1-45).
Bảy sự lạ trên, ông Gio-an không nói là phép lạ, mà ghi là “dấu lạ”. Qua bảy dấu lạ ấy, ông Gio-an nhận ra ý Chúa : Mọi sự chỉ được trở nên hoàn hảo và tồn tại muôn đời nhờ, với, trong Ngôi Lời nhập thể (x Ga 1,1-5). Đó là tuần Sáng Tạo Mới, Chúa Cha sai Con Một Ngài vào đời làm hoàn tất.

Vì thế dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su làm cho nước hóa thành rượu nho (x Ga 2). Đây là dấu về Bí tích Thánh Tẩy. Qua nước của Bí tích này, Thánh Thần tháp ta vào Đức Giê-su là Cây Nho thật (x Ga 15), có thế ta mới được Phục Sinh với Ngài qua dấu lạ thứ bảy phục sinh kẻ chết (x Ga 11). Để rồi Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Thần Khí Thiên Chúa làm triển nở sự sống vĩnh cửu. Vì

I- THẦN KHÍ CHÚA LÀ NGUYÊN LÝ SỰ SỐNG THẬT.

Cơ thể ai cũng cần khí để thở, thì linh hồn càng cần Thần Khí Chúa làm cho sống hơn thế nữa, như thánh Phao-lô đã nói trong Bài đọc II : “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8,10-11). Đúng là “Chúa luôn luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa”(Tv 130/129, 7bc : Đáp ca).

Như vậy,
* Sự chết không chế ngự được thân xác Đức Giê-su, vì nhờ Thần Khí trong bản tính Thiên Chúa hằng sống của Ngài. Đây là nguyên lý làm cho thân xác ta, dù có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng làm cho ta được trở nên công chính, bảo đảm sự Phục Sinh, vì cùng chung một sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi (x Rm 8, 10 ; Ga 6,57).Và sự chết không thể tồn tại trong bản tính toàn năng toàn thiện của Chúa Giê-su Phục Sinh, cũng nhờ Thần khí của Ngài làm cho sự chết chỉ là một giấc ngủ (x Mc 5,39 ; Ga 11,11: Tin Mừng). Do đó sự tội trong con người tín hữu không thể chung hợp với sự chiến thắng mà họ đã được nhận nơi Đức Giê-su Phục Sinh, bởi Thần Khí đổ xuống dẫy tràn ơn trên kẻ đã phạm tội mà sám hối chạy đến với Ngài, để được Ngài biến tội thành ơn, như lời thánh Phao-lô nói : “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội!” (Rm 5,20).

II- DẤU CHỈ THẦN KHÍ HOẠT ĐỘNG NƠI NGƯỜI KI-TÔ HỮU.

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Bài đọc I) đã tuyên sấm như sau : “Chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel. Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm” (Ed 37,12-14). Nhưng Thần Khí Chúa chỉ bày tỏ vinh quang trên những con người :

Luôn luôn tin tưởng Thiên Chúa yêu thương những kẻ muốn thuộc về Ngài, như lời người ta thưa với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, người Thầy yêu đau !” (Ga 11,3 : Tin Mừng), chứ họ không thưa “người yêu Chúa đau”. Quả thật ai bị “đau”, đó là dấu Chúa yêu họ !
Như bà Mát-ta tin rằng ai có Đức Giê-su ở cùng, người ấy sẽ không chết. Bà nói : “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây, em con đã không chết” (Ga 11,21: Tin Mừng). Mà dẫu có chết thối rữa đến bốn ngày như anh La-da-rô, thì họ cũng sẽ được Phục Sinh trong ngày cánh chung ! (x Ga 11,24 : Tin Mừng).
Phải liều chết vì Chúa, như ông Tô-ma đã động viên các môn đệ khác : “Chúng ta hãy theo Thầy để cùng chết với Thầy !” (Ga 11,16 : Tin Mừng). Bởi vì Đức Giê-su đã nói : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy sẽ không phải chết bao giờ” (Ga 11, 25-26a : Tung Hô Tin Mừng).
Nhất là những người tham gia vào sứ mệnh rao giảng Lời của Đức Giê-su. Đan cử như hai chị em Mát-ta và Ma-ri-a : Chị Mát-ta thì luôn luôn chu đáo dọn tiệc thiết đãi Thầy Giê-su ; còn cô Ma-ri-a thì luôn mở rộng tâm hồn để Thầy Giê-su rót Lời vào, chẳng quan tâm đến lời chị khiển trách (x Lc 10, 38-42). Cô Ma-ri-a nhờ Lời Chúa đã thấm vào tâm hồn, nên hiểu được nỗi buồn phiền của Thầy Giê-su bị bọn đầu mục Do Thái chống đối, vì Thầy đã cho La-da-rô, em cô sống lại, và họ đang tìm mưu tính kế để diệt Thầy, nên cô đã đoán trước Thầy sẽ bị chúng giết, do đó không chờ đến lúc Thầy được an táng trong mồ mới ra xức dầu, mà ngay khi Thầy đang dự tiệc ở nhà cô, cô đã mua bình dầu 300 quan để đổ vào chân Thầy. Đây là số tiền tương đương lương của một công nhân làm suốt một năm rưỡi (x Mt 20,2). Môn đệ Giu-đa thấy thế lấy làm tiếc, thì Đức Giê-su bảo : “Maria làm việc ấy để chỉ về ngày mai táng Thầy” (Ga 12,1-11).
Vì công đức của hai chị em này, mà Đức Giê-su đã cho La-da-rô, em các chị được sống lại. Chính vì vậy mà ông Gio-an đã đưa hai chị Mát-ta và Ma-ri-a đặt lên đầu trình thuật trước phép lạ (x Ga 11,1-2 : Tin Mừng), nhằm động viên mọi người bắt chước hai chị em này biết cộng tác với Hội Thánh lo việc Nước Thiên Chúa, đem ơn cứu độ đến cho mọi người, nhất là những người ta có trách nhiệm.

Nhưng ta phải xác tín rằng : Sự sống Phục Sinh phát triển nhiều hay ít, còn lệ thuộc cách biểu lộ sống Đức Tin và lòng mến ít hay nhiều của mỗi Ki-tô hữu, và của cộng đoàn dân Chúa (Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công).

Thực vậy, một hài nhi còn trong bụng mẹ, nó đã có sự sống của con người, nhưng sự sống ấy phải còn được vươn tới sự sống thần linh của Thiên Chúa (x Ga 6,57), sự sống ấy sẽ tăng triển ít hay nhiều còn tùy theo sau này khi nó đã lọt lòng mẹ, nó có chịu khó lao công vào việc của Thiên Chúa (x Ga 6,27), và lo tìm kiếm Nước Chúa trước và sự công chính của Ngài (x Mt 6,33) hay không ?

Đức Giê-su hôm nay phải khóc trước mộ anh La-da-rô (x Ga 11,35) không phải chỉ vì lòng trắc ẩn : “Một chi thể đau, chi thể khác đau chung” (x 1Cr 12,26a), mà Ngài còn khóc vì những kẻ chứng kiến phép lạ vĩ đại này, đáng lẽ họ phải tin Ngài là Thiên Chúa để được sống, nhưng tiếc thay phép lạ ấy lại làm cho lòng dạ họ trở nên chai đá, không tin, thì họ không thể nhận được sự sống Phục Sinh Ngài ban, và như thế mục đích Chúa làm cho người chết sống lại không đạt! Kẻ nào không tin Ngài là Chúa, chúng sẽ bị tiêu diệt như số phận đền thờ Giêrusalem mà Ngài nhìn thấy trước sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, khiến Ngài phải bật khóc! (x Lc 19,41).

Xưa kia vua Đa-vít thấy Absalon, đứa con phản bội cha, bị tướng Gio-áp đâm chết, vua òa khóc nức nở : “Áp-sa-lon con ơi, phải chi cha chết thay cho con !” (x 2Sm 19,1) Vua Đa-vít chỉ ước chết thay cho con được sống, chứ ông không thể thế mạng cho con trai mình được ! Trái lại, Đức Giê-su khóc cho lũ dân phản bội, và Ngài đã hiến mạng chết trong cảnh tủi nhục vì tội họ, để cho chúng được sự sống thật! Tình thương Chúa dành cho loài người tội lỗi cao cả đến thế, mà nhiều người không biết đón nhận, nên Đức Giê-su phải rên lên : “Liệu ngày tôi trở lại, có còn gặp được niềm tin nào trên mặt đất này không ?!” (x Lc 18,8).
THUỘC LÒNG.
Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính (Rm 8,10). (theo www.thanhlinh.net)