Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

Suy tư về Sứ điệp nhân ngày TG TTXH lần thứ 46: Thinh lặng để truyền thông



WGPSG -- Đã gần đến ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 46 (20-05-2012), BBT trang web tgpsaigon.net xin lần lượt giới thiệu cùng quý độc giả những bài suy tư của ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm (Chủ tịch Ủy ban Truyền thông xã hội trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam) về những Sứ điệp Truyền thông của Đức Thánh cha Bênêđictô XVI (năm 2010, 2011 và 2012).
Hôm nay, BBT xin giới thiệu bài suy tư về sứ điệp nhân ngày Thế giới Truyền thông xã hội lần thứ 46 (năm 2012):
Thinh lặng để truyền thông
Một cách đọc Sứ điệp Truyền Thông 2012 của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI
-----o0o----
Đức Bênêđictô XVI xem ra đang lội ngược dòng thời đại. Quy tụ cả triệu bạn trẻ trong các Đại hội Giới trẻ thế giới ở Đức, Úc, Tây Ban Nha, ngài mời gọi người trẻ sống tĩnh lặng trước Thánh Thể. Nói đến người trẻ là phải nói đến ồn ào, nhộn nhịp, hát ca múa nhảy… chứ tại sao lại thinh lặng? Trong sứ điệp cho Ngày Truyền thông thế giới năm nay cũng thế, ngài lại chọn chủ đề: Thinh lặng và Lời nói: Nẻo đường Phúc âm hóa. Truyền thông ngày nay đang được đồng hóa với nói và nói, nói càng nhiều càng to thì càng tốt càng thành công, làm sao thinh lặng mà lại truyền thông được? Đúng là ngược đời.
Thực ra, lội ngược dòng chỉ là mời gọi trở về với cái vốn nằm trong bản chất của sự việc nhưng đã bị lãng quên, thậm chí coi thường, nên cần ý thức lại. Bài viết này là một cách lắng nghe và tiếp cận lời mời gọi ấy để tìm lại ý nghĩa phong phú của thinh lặng trong truyền thông: (1) khởi đi từ một vài nhận định về hiện trạng của truyền thông, đến (2) khám phá lại giá trị của thinh lặng, và (3) hướng tới việc loan báo Tin Mừng.
1. Một vài nhận định về hiện trạng truyền thông
Tháng 3 năm 2012, Encyclopaedia Britannica tuyên bố chấm dứt việc xuất bản bộ bách khoa toàn thư nổi tiếng này. Thay vào đó sẽ là bộ bách khoa online. Một bộ bách khoa có lịch sử lâu đời (ấn bản đầu tiên vào năm 1770, cách nay gần 250 năm), nổi tiếng về học thuật, niềm tự hào của những người yêu sách, nay phải đình bản để nhường chỗ cho ấn bản online.
Vào Wikipedia, người đọc sẽ thấy trong tiếng Anh có gần 4 triệu bài viết về đủ mọi vấn đề, ngay cả tiếng Trung quốc bây giờ cũng có gần 800.000 mục từ.
Tất cả đều nói lên ưu thế của internet trong truyền thông ngày nay: “Đối với nhiều người, muốn tìm lời khuyên, ý tưởng, thông tin và các câu trả lời, thì việc đầu tiên là lên mạng hay vào mạng xã hội. Trong thời đại chúng ta, internet ngày càng trở thành nơi để hỏi và tìm câu trả lời” (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Đúng thế, bà nội trợ muốn làm món ăn ngon? Lên mạng. Cô thiếu nữ muốn sắm bộ cánh mới? Lên mạng. Bạn thanh niên tìm kiếm thông tin mới nhất về bóng đá? Lên mạng. Thần tượng ca nhạc mới nổi mặt mũi ra sao? Lên mạng. Ngay cả các linh mục muốn tìm thông tin về thần học, cũng có thể lên mạng.
Internet đúng là quà tặng tuyệt vời của Đấng Tạo Hóa và trí sáng tạo của con người. Thế nhưng cái gì cũng có mặt trái của nó. Với tốc độ hết sức nhanh và với lượng thông tin khổng lồ như thế, internet có thể làm cho con người trở nên hời hợt, phân tán và lệ thuộc.
Hời hợt. Một chuyên viên phần mềm Macromedia cho biết những người lướt web trung bình chỉ có 7 giây để nhìn vào một giao diện, rồi chuyển sang giao diện khác. Ông nói với các công ty như thế để họ biết phải làm thế nào thu hút người xem. 7 giây! Chỉ bằng một hơi thở sâu và còn thua thời lượng cho việc xỉa răng! Một giám mục kêu lên: Làm thế nào để giới thiệu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô trong 7 giây? Làm thế nào để có thể trình bày đức tin công giáo trong 7 giây? Và vì người ta chuyển liên tục từ kênh này sang kênh khác, từ hình ảnh này đến hình ảnh khác, làm sao có được sự sâu sắc? Hời hợt là chuyện dễ hiểu.
Phân tán. Với khối lượng thông tin khổng lồ –Đức Bênêđictô XVI dùng từ “bị dội bom” (bombarded)– tâm trí con người bị phân tán thành nhiều mảnh: “Con người ngày nay thường xuyên bị dội bom vì những câu trả lời cho những câu hỏi mà họ không bao giờ đặt ra và những nhu cầu họ không biết đến” (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Bị phân tán vì những thông tin không cần thiết, người ta cũng dần đánh mất sự tập trung vào những câu hỏi thiết yếu nhất trong hành trình làm người, những câu hỏi về cội nguồn, ý nghĩa và cùng đích đời sống.
Lệ thuộc. Bị dội bom liên tục và thường xuyên như thế, con người cũng dễ đánh mất khả năng suy tư độc lập và nhận định khách quan, hoàn toàn lệ thuộc vào những thông tin các trang mạng cung cấp. Mạng nói thế là đúng rồi, mạng viết thế là chính xác rồi! Cho nên cuộc chiến quyết liệt ngày nay là chiến tranh thông tin. Nhắc lại ở đây chuyện ngụ ngôn hiện đại về chú rùa chắc cũng không thừa. Chú rùa có cái mai cứng, tuy nặng nề nhưng bảo vệ mạng sống an toàn. Con cáo nhiều lần dụ chú rùa bán mai cho nó, lấy tiền đi du lịch cho sướng. Dĩ nhiên rùa không tin. Thế rồi một hôm, nhân cáo đi vắng, rùa thò đầu ra xem, thấy màn hình TV thông tin cáo đã “ăn năn sám hối”, không ăn thịt nữa mà chuyển sang ăn chay. Lại thêm màn quảng cáo đi du lịch bằng máy bay. Rùa bán tín bán nghi. Hôm sau thò đầu ra lại cũng nghe thấy thế. Nhiều lần lặp đi lặp lại, bèn tin. Rùa ngỏ ý bán mai cho cáo. Nhưng ngày rùa bán mai cũng là ngày kết thúc đời rùa! Tội nghiệp chú rùa chết vì thông tin. Thông tin làm chao đảo tâm hồn, làm mờ xác tín, cuối cùng giết chết niềm tin.
Thế giới thông tin có những mặt trái như thế nhưng chúng ta không thể chạy trốn thế giới đó. Điều may mắn và cũng là điều làm cho con người thành vĩ đại, ấy là mỗi con người vẫn là một chủ thể tự do và có khả năng suy nghĩ độc lập. Ở tự nó, tốc độ nhanh nhạy của internet và lượng thông tin khổng lồ nó cung cấp không thể giết chết ai, trái lại còn làm cho con người thêm phong phú nếu biết sử dụng đúng cách. Một trong những đòi hỏi căn bản là kiến tạo sự thinh lặng nội tâm. Để mình thật là mình. Để tạo khoảng cách với cuộc đời. Để thấy chiều sâu những sự kiện. Để đón nhận những gì thực sự mang ích lợi cho bản thân và xã hội.
“Giữa những phức tạp và đa dạng trong thế giới truyền thông, nhiều người vẫn thấy mình phải chạm trán với những câu hỏi tối hậu về hiện hữu nhân sinh: Tôi là ai? Tôi có thể biết được gì? Tôi phải làm gì? Tôi nên hi vọng gì? Điều quan trọng là phải nâng đỡ những ai đặt câu hỏi này và mở ra cuộc đối thoại sâu sắc về những vấn đề đó. Cuộc đối thoại ấy được tiến hành bằng lời nói, sự trao đổi, nhưng cũng bằng suy tư tĩnh lặng, vốn là điều gì đó ‘hùng biện’ hơn câu trả lời vội vã. Suy tư tĩnh lặng cũng giúp cho người tìm kiếm đạt tới chiều sâu của hiện hữu và mở lòng ra với nẻo đường mà Thiên Chúa ghi khắc trong trái tim nhân loại” (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Vậy thì cần phải ý thức lại giá trị của thinh lặng như thành tố thiết yếu trong hoạt động truyền thông.
2. Tìm lại giá trị của thinh lặng
Thinh lặng để lắng nghe

Hãy thử đặt câu hỏi: trong hoạt động truyền thông, giao tiếp giữa người với người, người nói tác động trên người nghe thế nào? Theo phân tích của các nhà chuyên môn, tác động của lời nói chỉ chiếm 10%, 30% là do âm điệu, còn 60% do ngôn ngữ cơ thể. Đức Bênêđictô XVI hiểu rõ điều này nên ngài viết: “Truyền thông đúng nghĩa nhất diễn ra giữa những người đang yêu: những cử chỉ, những diễn tả trên khuôn mặt và ngôn ngữ cơ thể là những dấu hiệu qua đó họ ‘nói với nhau’, tỏ mình cho nhau. Niềm vui, nỗi âu lo, đau khổ, tất cả có thể được truyền thông trong thinh lặng. Thinh lặng cung cấp hình thức diễn tả mạnh mẽ cách đặc biệt” (Sứ điệp Truyền Thông 2012).
Nếu tác động của lời nói chỉ chiếm 10% còn tác động của ngôn ngữ cơ thể chiếm 60%, hóa ra người ta nghe không phải bằng tai mà bằng mắt! Sự thật là thế, video hấp dẫn hơn audio nhiều. Nhưng sâu xa hơn nữa là chính trái tim con người. Mắt chỉ nhìn thấy cái bên ngoài, còn trái tim mới thấy cái bên trong. Nếu người ta nghe bằng mắt hơn bằng tai, ấy là vì cặp mắt là cửa sổ của linh hồn. Cho nên thay vì nói “nghe bằng mắt” thì có thể nói “nghe bằng linh hồn, nghe bằng con tim”.
Để nghe bằng con tim, điều tiên quyết là phải thinh lặng. Thinh lặng tạo không gian tự do cho người khác lên tiếng. Thinh lặng tạo khoảng trống để có thể đón nhận người khác. Thinh lặng làm nên sự chăm chú trước những gì người khác muốn truyền đạt, không những qua lời đang nói mà còn qua ngữ điệu và cử điệu, qua khuôn mặt và những phản ứng của cơ thể. Người ta nghe mà không hiểu nhau, chủ yếu là vì thiếu thinh lặng. Thiếu thinh lặng nên chỉ nghe những gì mình muốn nghe. Thiếu thinh lặng nên chỉ đón nhận người khác cách hời hợt, đón nhận họ như mình muốn chứ không như họ là.
Thinh lặng để có thể nói
Cách đây 30 năm, William Shannon đưa ra nhận xét: “Chúng ta đang sống trong thời đại của ngôn từ. Chúng ta bị ngạt thở, bị chôn vùi, bị tràn ngập vì ngôn từ từ mọi phía. Và những ngôn từ ấy thường ít gây ấn tượng nơi ta vì nhiều quá và hời hợt. Nó không phát sinh từ thinh lặng nhưng từ sự bận rộn”. Nhận xét ấy vẫn đúng và càng đúng hơn nữa cho thời đại ngày nay, thời của computer và internet. Tràn ngập thông tin và rất nhiều thông tin ở bề mặt, hời hợt, phiếm diện, thiếu chiều sâu.
Để lời nói có giá trị, cần thinh lặng, vì “Trong thinh lặng, tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta hiểu rõ hơn điều mình muốn nói và muốn người khác đón nhận. Trong thinh lặng, chúng ta tìm cách diễn tả chính mình tốt hơn” (Sứ điệp Truyền thông 2012). Chắc chắn đây là kinh nghiệm cụ thể và sống động của tất cả những ai hoạt động trong mọi lãnh vực tư duy, từ khoa học tự nhiên đến triết học siêu hình, từ khoa học xã hội đến sáng tạo nghệ thuật. Thinh lặng là miền đất phì nhiêu cho hạt lúa đơm bông. Thinh lặng là cung lòng người mẹ cho tư tưởng mang lấy hình hài.
Không trân quý thinh lặng, ngôn từ sẽ thiếu chiều sâu và lời nói thành vô nghĩa. Như Thomas Merton diễn tả, “Nếu đời ta cứ tuôn ra toàn những lời vô ích, sẽ chẳng bao giờ ta nghe được bất cứ cái gì, sẽ chẳng bao giờ ta trở thành bất cứ cái gì, và cuối cùng, vì ta toàn nói trước khi có cái gì để nói, ta sẽ trở thành người không biết nói”.
Thinh lặng làm nên truyền thông
Vì thinh lặng là đòi hỏi cần thiết không những để nghe mà còn để nói, nên thinh lặng làm nên sự giao tiếp đích thực trong truyền thông. Trong thinh lặng, chúng ta phân biệt được những gì là thiết yếu và những gì là phụ thuộc. Trong thinh lặng, chúng ta khám phá mối liên hệ giữa những biến cố và sự kiện mà thoạt nhìn, tưởng như là những sự kiện rời rạc. Trong thinh lặng, chúng ta phân tích và đánh giá những thông tin, nhờ đó có cái nhìn đúng đắn và sâu sắc, những ý kiến đáng giá và ích lợi.
Trong Sứ điệp Truyền Thông 2011, Đức Bênêđictô XVI đã nói đến bốn yếu tố của truyền thông chân chính: trung thực, cởi mở, tôn trọng người khác, có tinh thần trách nhiệm. Cả bốn yếu tố này đều chỉ có được nhờ thinh lặng. Nhờ thinh lặng, tôi biết mình rõ hơn và thật với chính mình hơn. Nhờ thinh lặng, tôi hiểu người khác rõ hơn và có thể đón nhận họ. Nhờ thinh lặng, tôi nhìn người khác như họ là chứ không như tôi muốn hay tôi nghĩ họ là như thế. Cũng nhờ thinh lặng, tôi ý thức hơn về trách nhiệm của mình khi phát biểu. Thật vậy, “Thinh lặng và lời nói là hai mặt của hoạt động truyền thông. Hai mặt ấy cần được giữ ở thế quân bình, tác động lên nhau và hòa quyện với nhau để làm nên cuộc đối thoại đúng đắn và sự gần gũi sâu xa giữa con người với nhau. Khi thinh lặng và lời nói loại trừ nhau thì truyền thông bị bẻ gẫy, vì nó dẫn đến sự mơ hồ hoặc sự lạnh lùng; ngược lại, khi bổ túc cho nhau thì hoạt động truyền thông đạt được ý nghĩa và giá trị” (Sứ điệp Truyền Thông 2012).
3. Để truyền thông Tin Mừng
Những phân tích trên về mối tương quan giữa thinh lặng và lời nói không nhằm mục đích nghiên cứu tâm lý, nhưng là nền tảng cho suy nghĩ về sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Không phải vô tình mà Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Vì thế Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và trong thế giới hiện đại, Hội Thánh khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ mệnh.
Tuy nhiên thực tế là dù có trong tay những phương tiện truyền thông hiện đại đến đâu chăng nữa thì phương tiện vẫn chỉ là phương tiện. Chính con người –ở đây là các Kitô hữu– mới là chủ thể. Nếu các Kitô hữu không ý thức và tha thiết với sứ mệnh loan báo Tin Mừng thì những phương tiện truyền thông hiện đại cũng không thể giúp gì được, có khi còn gây tác dụng ngược. Vì thế, trong tư cách là người làm công tác truyền thông, bản thân Kitô hữu phải được ‘phúc âm hóa’ để có thể ‘phúc âm hóa’ người khác cũng như những thực tại xã hội.
Nếu thinh lặng là thành tố thiết yếu trong hoạt động truyền thông và giao tiếp giữa con người với nhau, thì thinh lặng lại càng cần thiết hơn nữa trong tiến trình phúc âm hóa.
Phải thinh lặng để có thể lắng nghe Đấng không chỉ tỏ mình bằng lời nói nhưng còn qua thinh lặng. Tông huấn Verbum Domini số 21 diễn tả chân lý này hết sức sâu sắc: “Như thập giá Đức Kitô cho thấy, Thiên Chúa cũng nói qua sự thinh lặng của Ngài. Sự thinh lặng của Thiên Chúa, kinh nghiệm về sự xa cách với Đấng toàn năng và là Cha, là một chặng quyết định trong hành trình trần thế của Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể. Khi bị treo trên thập giá, Người đã diễn tả nỗi đau khổ do sự thinh lặng (của Thiên Chúa) gây ra: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mc 15,34; Mt 27,46). Từ đó, tông huấn nói đến kinh nghiệm của các thánh, các nhà thần bí cũng như của chính chúng ta về sự thinh lặng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa là Đấng ngỏ lời trong thinh lặng thì làm sao có thể nghe được tiếng Ngài và đón nhận Lời Ngài khi ta không chấp nhận trở về trong thinh lặng?
Hơn thế nữa, phải trở về trong thinh lặng để có thể nói với Đấng của cõi lặng. Khi đó, thinh lặng trở thành cầu nguyện trong chiêm niệm. Chiêm ngắm công trình tạo dựng kỳ vĩ và tuyệt hảo của Thiên Chúa. Chiêm ngắm hành động cứu độ qua những đường lối lạ kỳ của Ngài. Chiêm ngắm sự hiện diện vô hình mà sống động của Chúa trong những biến cố của Hội Thánh và thế giới: “Trong thinh lặng của chiêm niệm, Lời hằng hữu hiện diện cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử bằng lời nói cũng như hành động” (Sứ điệp Truyền Thông 2012).
Chỉ khi ấy, chỉ khi bản thân Kitô hữu, nhờ thinh lặng, lắng nghe được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp với Ngài, chúng ta mới có thể truyền thông Lời Chúa như là Lời Chúa thực sự chứ không chỉ là vỏ bọc cho những suy nghĩ của con người ích kỷ và chật hẹp vốn có nơi mỗi chúng ta. Chính vì thế Đức Bênêđictô XVI khuyến khích những ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và mạng xã hội “có thể giúp con người ngày nay tìm được thời giờ suy tư và tìm hiểu những vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng trống cho thinh lặng và cơ hội cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa”.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã diễn tả vẻ đẹp, chiều sâu và sự cần thiết của thinh lặng qua lời cầu nguyện thật thâm thúy:
“Lạy Thiên Chúa, Đấng yêu thích sự thinh lặng,
xin dạy chúng con thinh lặng
để ở một mình với Ngài,
trò chuyện, lắng nghe,
và thấm nhuần Lời hằng sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt,
biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,
biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,
để nghe được tiếng kêu của người nghèo,
để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi
để biết ca tụng Chúa
và đem lại an vui cho muôn người.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,
để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng, xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,
để tránh mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét,
để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.

Kết luận
Trong số những từ ngữ đẹp đẽ dành cho Đức Maria, tôi yêu một tên gọi mà Jean Guitton dành cho Mẹ. Ông gọi Mẹ là “Trinh nữ suy tư”. Người trinh nữ ấy “ghi nhớ mọi sự và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Mẹ không vội vã phản ứng và phát biểu nhưng “ghi nhớ” và “suy đi nghĩ lại trong lòng”. Dĩ nhiên trong thinh lặng của tâm hồn. Trong thinh lặng, Mẹ khám phá ý nghĩa các sự kiện và biến cố. Trong thinh lặng, Mẹ đi vào cuộc giao tiếp thâm sâu với Lời Thiên Chúa và để Lời ấy nên hình hài trong lòng Mẹ. Và trong thinh lặng, Mẹ “truyền thông” Lời Thiên Chúa cho nhân loại. Mẹ đúng là mẫu gương tuyệt vời của truyền thông.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con biết yêu mến sự thinh lặng như Mẹ, để chúng con được trở nên những người truyền thông Lời Chúa như Mẹ đã ban tặng Đức Giêsu cho chúng con.
Ủy ban Truyền thông Xã hội trực thuộc HĐGMVN
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Mục vụ Truyền Thông phục vụ nền văn minh tình thương và sự sống


WGPSG -- Đã gần đến ngày Thế giới Truyền thông xã hội lần thứ 46 (20-05-2012), BBT trang web tgpsaigon.net xin lần lượt giới thiệu cùng quý độc giả những bài suy tư của ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm (Chủ tịch Ủy ban Truyền thông xã hội trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam) về những Sứ điệp Truyền thông của Đức Thánh cha Bênêđictô XVI (năm 2010, 2011 và 2012).
Hôm nay, BBT xin giới thiệu bài suy tư về sứ điệp nhân ngày Thế giới Truyền thông xã hội lần thứ 45 (năm 2011):
MỤC VỤ TRUYỀN THÔNG
PHỤC VỤ NỀN VĂN MINH TÌNH THƯƠNG VÀ SỰ SỐNG
Tháng 4 năm 2011, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN) kết thúc hội nghị thường niên lần 1-2011 và công bố Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống. Là những người làm mục vụ truyền thông, họp nhau trong ngày Quốc Tế Truyền Thông 2011, câu hỏi đặt ra cho chúng ta là : Cần làm gì để mục vụ truyền thông thực sự phục vụ nền văn minh tình thương và sự sống, đặc biệt là qua mạng internet? Để trả lời câu hỏi này, một trong những cách thế tốt nhất là đọc lại Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân Ngày Quốc Tế Truyền Thông 2011, với tựa đề Sự Thật, việc loan báo và cuộc sống thực của đời sống trong thời đại kỹ thuật số.
Internet phục vụ nền văn minh tình thương và sự sống
Sứ điệp 2011 quan tâm đặc biệt đến mạng lưới truyền thông Internet. Internet được coi là hiện tượng đặc thù của thời đại, đáng so sánh với Cách mạng kỹ nghệ vì tạo nên những thay đổi tận gốc trong truyền thông: không những trong những phương tiện truyền thông mà cả trong cách thức học hỏi và suy tư vì “làm nảy sinh một lối học tập và suy nghĩ mới”, cũng như “những cơ hội chưa từng có trong việc thiết lập những tương quan” vì nó mở ra những tương quan hoàn toàn mới, vượt trên mọi ranh giới địa lý và văn hóa. Chính vì thế, Internet ngày nay đóng vai trò hướng dẫn những phát triển văn hóa và xã hội theo nghĩa tích cực nhất, là phương thế giúp cho sứ điệp tình thương và sự sống lan truyền nhanh nhất và hiệu quả rất lớn.
Có thể lấy vô vàn ví dụ để minh họa sự thật này. Ở đây chỉ muốn nhắc đến một khuôn mặt và hoạt động cụ thể trong thế giới mạng : Mark Zuckerberg, chàng sinh viên Harvard, người đã lập nên Facebook, được coi là trang mạng xã hội có ảnh hưởng hàng đầu thế giới. Báo TIME tháng 05-2011 xếp Mark Zuckerberk vào số 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới. Facebook đã thực sự đem lại nhiều thành quả tốt lành, chẳng hạn báo TIME ghi lại chia sẻ của một người cho biết nhờ Facebook mà có nhiều bệnh nhân về thận được cứu sống, vì qua trang mạng này, họ biết được người chấp nhận hiến thận, nhờ đó được cứu sống. Đây chỉ là một chia sẻ giữa biết bao nhiêu ích lợi khác mà trang mạng này mang lại. Hãy thử nhớ lại sự kiện nước Nhật bị sóng thần và động đất tấn công, sau đó là nguy cơ rò rỉ hạt nhân… Ngay lập tức trên mạng internet xuất hiện biết bao sứ điệp sẻ chia, an ủi, đồng cảm, cùng với những kế hoạch vận động giúp đỡ các nạn nhân. Con người trên khắp thế giới, dù ở đâu và xa nhau cách mấy, cũng được liên kết với nhau nhờ internet. Internet thực sự là phương tiện phục vụ hữu hiệu nền văn minh tình thương và sự sống: “Nếu được sử dụng cách khôn ngoan, internet có thể góp phần làm thỏa mãn niềm khao khát về ý nghĩa, sự thật và sự hiệp nhất vốn vẫn là khát vọng thâm sâu nhất của mỗi con người”.

Internet cũng có thể là đồng minh của thứ văn hóa hận thù, ích kỷ và chết chóc
Bên cạnh những thành tựu lớn lao đó, lại có những giới hạn và nguy cơ hàm ẩn bên trong mà đôi khi người sử dụng internet không ý thức hoặc chưa ý thức đủ. Đức Bênêđictô XVI có những phân tích sâu sắc về khía cạnh này, rất đáng cho những ai sử dụng internet quan tâm.
Trước hết là nguy cơ làm cho con người thành vô danh. Hệ quả là con người tham gia thật nhiều hoạt động truyền thông mà vẫn cô đơn. Lại một lần nữa, có thể nhắc đến Facebook qua bộ phim được đề nghị giải thưởng Oscar 2011: Phim The social network.
Bộ phim được xây dựng dựa trên một cuốn sách về Mark Zuckerberg và trang mạng xã hội Facebook. Trang web này giúp mọi người trên thế giới kết nối với nhau nhưng mỉa mai thay, lại không giúp cho Mark – nhà vua của đế chế Facebook – kết nối được với những cộng sự và cả người bạn thân tình nhất của anh. Những vụ kiện cáo xảy ra liên tục giữa anh và một nhóm khác, cuối cùng là với người bạn thân thiết của anh. Có trong tay cả tỉ đôla nhờ website kết nối bạn bè nhưng chính Mark vẫn là một người cô đơn, không có nổi một người bạn bên cạnh. Thành ra những người thực hiện bộ phim muốn gửi đến mọi người một sứ điệp cụ thể : Dù có những phát minh vĩ đại làm thay đổi cách thế giới giao tiếp, truyền thông mới mẻ chăng nữa, thì con người vẫn sẽ cô đơn nếu không thể chia sẻ được với những người thân quanh họ.
Đây cũng là điều Đức Bênêđictô XVI nhắc nhớ trong Sứ điệp 2011 cho ngành truyền thông: “Những giới hạn điển hình của truyền thông kỹ thuật số là : tính một chiều trong những mối tương tác, khuynh hướng chỉ truyền thông phần nào đó trong thế giới nội tâm của mình, nguy cơ xây đắp hình ảnh giả tạo về bản thân, từ đó có thể trở thành một hình thức phóng túng”.
Nguy cơ kế tiếp là internet có thể dẫn con người vào thế giới ảo mà quên mất đời sống thật, những tương quan thật, nhất là những gì chính yếu nhất của đời sống. Tôi đọc được một bài báo với những ghi nhận lý thú về thế giới ảo này. (X. bài “Sự nguy hiểm của vĩnh cửu”, Tuổi Trẻ cuối tuần, 27-2-2011)
“Không bằng lời thì bằng hình ảnh, hằng ngày, thậm chí là hằng giờ, hằng phút, giới trẻ (cả giới hết trẻ) đều đang nhiệt thành lắm, báo cáo chi tiết trên mạng facebook, từ những thứ hữu hình: rằng thì tôi đang ngồi ở quán café này, tôi đang dùng cái điện thoại này, tôi đang uống loại rượu này, tôi đang nói chuyện với nhân vật này, tôi đang đọc cuốn sách này, xem bộ phim này… đến vô hình hơn như : tôi đang suy nghĩ điều này, tôi bức xúc chuyện này, tôi đang say sưa vấn đề này….
“Với thành tích ngày mấy chục lần báo cáo như thế, thế hệ sau hẳn sướng hơn khi muốn tìm hiểu về người đi trước lắm. Nhưng rồi lại thấy thương người cùng thời với mình một chút…
“Bởi, đôi khi, gọi một món ăn, nhiều khi lo chụp hình, lo hỏi xuất xứ, công thức chế biến (để sau đó kể lại) mà quên chuyện bỏ vào miệng mình, để nghe nó mặn, đắng, chát hay chua. Đôi khi, trước một cảnh đẹp, lo giương máy lên, in khoảnh khắc có mình trong đó để “post blog” mà quên ngắm, ngửi, nghe… coi có gì lúc đó. Đôi khi, trước một ca sĩ hát hay, diễn viên diễn giỏi, làm khán giả mà quên thưởng thức tài nghệ, chỉ bàn nhau về khoảnh khắc đứng bên cạnh họ, giơ hai ngón tay, cặp cổ để chứng minh điều gì đó. Thậm chí, đôi khi, cái ấm áp, thiêng liêng của việc nắm tay nhau, hôn nhau cũng nhường chỗ cho nỗi lo phải làm sao cho lên hình thật rõ, thật đẹp…
Từ đó, chẳng lạ gì khi người ta sinh nghi nhau, rằng những mối quan hệ trong đời, khi đi với nhau, nói chuyện với nhau, đùa vui với nhau, thậm chí tỏ tình với nhau không phải là cho riêng chuyện “với nhau” nữa rồi.”
Những ghi nhận trên phát xuất từ những gì rất đời thường mà ít ai quan tâm, đồng thời lại đặt ra một vấn đề ở chiều sâu về cuộc sống. Chính vì thế, Đức Bênêđictô XVI viết: “Trong thế giới mới này của internet, ai là người thân cận của tôi? Lại chẳng có nguy cơ là chúng ta ít hiện diện hơn với những người ta gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày sao (vì còn lo gặp người quen-mà-lạ ở internet)? Có chăng nguy cơ làm cho cuộc sống của ta bị xao lãng vì còn lo quan tâm đến ‘thế giới khác’ hơn thế giới thật mà ta đang sống? Liệu chúng ta có giờ để suy nghĩ cách nghiêm túc về những chọn lựa của mình và củng cố những mối tương quan sâu xa vững bền không? Phải luôn nhớ rằng những tiếp xúc ảo không thể thay thế được những tiếp xúc trực tiếp với những con người cụ thể ở mọi mặt của đời sống”.
Ấy là chưa kể đến những nguy cơ có tầm vóc lớn lao và tai hại hơn, cũng được Đức Thánh Cha nhắc tới. Chẳng hạn, những hình ảnh, thông tin trên mạng có thể thao túng con người về mặt cảm xúc… tạo ra những cảm xúc chân thành của người xem, người nghe, nhưng lại là những cảm xúc “bị đánh lừa” vì nó dựa trên những sự kiện không có thật. Thế rồi, nhờ có nhiều tiền của và phương tiện kỹ thuật, những người nắm quyền lực trong ngành truyền thông có thể lèo lái suy nghĩ và ý kiến của người khác, làm cho ta mất đi sự độc lập và tự do chính ra phải có.
Để mục vụ truyền thông thực sự phục vụ nền văn minh tình thương và sự sống Những phân tích trên cho thấy một điều rất cụ thể là: con người là yếu tố then chốt. Internet là do con người làm ra. Chính con người có thể sử dụng nó để phục vụ nền văn minh tình thương và sự sống. Cũng chính con người có thể sử dụng nó để gieo rắc thứ văn hóa hận thù và chết chóc. Vì thế đối với người làm công tác truyền thông công giáo, vấn đề chính là phải khẳng định một lập trường đúng đắn và có những thái độ thích hợp khi dùng internet cũng như những phương tiện truyền thông khác.
Theo Đức Bênêđictô XVI, lập trường căn bản phải khẳng định là: Chân lý không phải là kết quả của sự nổi tiếng hoặc vì lôi kéo được nhiều người. Đây là cơn cám dỗ rất lớn đối với người làm công tác truyền thông: làm sao để trang web của tôi thu hút được nhiều người xem? Làm sao tôi trở thành người nổi tiếng, được nhiều người biết đến và hâm mộ? Thế nên đã có những người tung lên mạng những gì giật gân nhất, gây scandal nhất… để tạo được sự chú ý, dù toàn là chuyện chẳng ra gì! Rồi người ta có khuynh hướng đồng hóa chân lý với số đông. Cứ cái gì được số đông ủng hộ thì là chân lý. Xin hãy chiêm ngắm lại khung cảnh đồi Canvê và tự hỏi: chân lý ở đâu? Chân lý ở nơi Đấng chịu đóng đinh hay ở đám đông đang hò la lên án? Theo quan điểm công giáo, chân lý phải gắn liền với thiện hảo toàn diện. Chân lý phải mang tính toàn diện và là của ăn nuôi dưỡng đời sống: “Chúng ta phải làm cho chân lý ấy được biết đến cách toàn vẹn, thay vì tìm cách làm cho người ta dễ chấp nhận nó hoặc làm dịu nó đi. Chân lý ấy phải trở nên lương thực hằng ngày chứ không chỉ là điều hấp dẫn thoáng qua. Chân lý Tin Mừng không phải là cái gì đó để tiêu thụ hay sử dụng cách hời hợt, nhưng là một quà tặng đòi hỏi sự đáp trả của tự do”.
Khẳng định lập trường mà thôi chưa đủ, còn phải quan tâm đến những thái độ thích hợp với Tin Mừng khi làm công tác truyền thông. Truyền thông công giáo không chỉ là trình bày một nội dung tôn giáo nhưng còn là cách thế truyền thông, cách thế ta hiện diện trong thế giới kỹ thuật số. Làm sao để ta hiện diện trong thế giới đó đúng tư cách là Kitô hữu, người môn đệ Chúa Giêsu?
Đức Bênêđictô XVI dùng 4 tính từ để mô tả thái độ phải có của người làm công tác truyền thông tôn giáo: Trung thực - Cởi mở - Có trách nhiệm - Kính trọng người khác. Trong Sứ điệp của ngài, 4 tính từ này chỉ được nhắc đến trong một câu nên có thể ta chỉ lướt qua mà không chú tâm đủ. Thiết nghĩ đây là những từ quan trọng đến nỗi sau buổi thuyết trình này mà cử tọa nhớ được 4 từ này thôi… thì đã là thành công mỹ mãn rồi.
Để cụ thể hóa những gợi ý của Đức Giáo hoàng, cũng xin minh họa bằng một cuốn phim được Giải Oscar 2011: Phim The King’s speech. Chuyện kể về vua Georges VI, cha của nữ hoàng Elisabeth II hiện nay. Ông là công tước Albert thuộc hoàng tộc, em của Edward. Khi vua Georges V qua đời, người anh là Edward lên ngôi, nhưng rồi trong triều đại ông đã xảy ra chuyện tình hi hữu, nổi tiếng thế giới: ông yêu một người phụ nữ đã ly dị và cương quyết lấy bằng được dù phải hi sinh ngôi vua. Sau khi Edward thoái vị, Albert phải thay thế nhưng bản thân ông không muốn đến nỗi đã khóc lóc với mẹ khi nói đến chuyện này. Lý do là vì ông bị tật nói lắp và rất ngần ngại lãnh trách nhiệm. Một người đứng đầu đất nước mà nói không nên lời thì làm sao?
Điều rất độc đáo là vai trò của bà vợ. Không muốn chồng mình là trò cười trước mặt thiên hạ, bà Elisabeth, vợ của Albert, đã tìm đến một bác sĩ nhờ chữa trị. Thế là ông vua Albert phải tuân theo phương pháp chữa giọng và tập nói của bác sĩ, một trong những thần dân của mình. Để tập luyện như thế, ông phải:
- trung thực: không dấu giếm nhưng nhìn nhận khuyết điểm của mình, có nhìn nhận khuyết điểm thì mới sửa được.
- cởi mở: biết lắng nghe người khác dù người đó dưới quyền mình, phải dẹp bỏ tự ái, uy quyền, thói quen được cung phụng, hầu hạ, ra lệnh hơn là làm theo lệnh của người khác.
- tôn trọng người khác: người khác ở đây là bác sĩ chữa bệnh và cũng là thần dân của ông, nhưng ông phải tôn trọng, làm theo những gì bác sĩ hướng dẫn.
- có tinh thần trách nhiệm: ý thức trách nhiệm trước người dân và đất nước, vì trách nhiệm này mà phải cố gắng tập luyện.

Như thế, khi tập nói, ông không chỉ tập phát âm mà còn tập làm một vị vua biết lắng nghe thần dân của mình, một vị vua khiêm tốn, biết tôn trọng dân và có trách nhiệm với dân. Nhờ đó Albert trở thành vị vua đáng kính, đã chu toàn trách nhiệm đứng đầu đất nước trong một giai đoạn khó khăn là thế chiến II, khôi phục lại uy tín của hoàng gia sau cuộc khủng hoảng trầm trọng người anh để lại.
Cuốn phim chất chứa một sứ điệp quan trọng: Không ai sinh ra đã hoàn hảo mọi sự nhưng phải tập luyện. Để làm công tác truyền thông công giáo, chúng ta phải là những người trung thực, cởi mở, có tinh thần trách nhiệm, biết kính trọng người khác. Ước gì mỗi khi ta viết một bản tin, truyền đi một hình ảnh, kết nối với một người, những tĩnh từ này lại xuất hiện trong tâm trí như lời nhắc nhớ : Bản tin tôi viết như thế này có phản ánh đúng sự thật không hay tôi đã vo tròn, bóp méo cho phù hợp với sở thích của mình? Tôi có sẵn sàng đón nhận và lắng nghe những ý kiến và suy nghĩ khác với quan điểm của mình không? Tôi có dám chịu trách nhiệm về những gì mình viết và thông tin không, có ý thức trách nhiệm của mình là người môn đệ của Chúa và là người loan báo Tin Mừng không? Tôi có kính trọng người đọc không khi viết bài này, khi đưa hình ảnh nọ lên mạng?
Điều đó không tự nhiên mà có nhưng phải tập luyện, cũng không chỉ là tập luyện về kỹ thuật mà là “thể thao thiêng liêng”, linh thao. Nhưng nếu ta cố gắng để thực hiện thì hi vọng công tác truyền thông ta đang làm sẽ góp phần tích cực vào việc bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống: “Tôi muốn mời gọi các Kitô hữu hãy tự tin cùng với tinh thần sáng tạo có ý thức và trách nhiệm, tham gia vào mạng lưới các tương quan mà thời đại kỹ thuật số đã đem lại. Không phải đơn thuần để thỏa mãn ao ước được hiện diện, nhưng vì mạng lưới này là một phần của cuộc sống con người. Mạng lưới internet đang đóng góp vào sự phát triển những chân trời mới mẻ và phức tạp hơn về tâm linh và trí thức, cũng như những hình thức mới trong việc chia sẻ nhận thức. Cả trong lãnh vực này, chúng ta cũng được mời gọi loan báo niềm tin của chúng ta rằng Đức Kitô là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ nhân loại và lịch sử, Đấng mà nơi Người mọi sự được thành toàn” (x.Ep 1,10).

Lễ Chúa Giêsu lên trời, 2011
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm