Thứ Tư, 30 tháng 3, 2011

Trở về nhà Cha trong Giáo Hội Công giáo của một bác Sỹ !


Lời Chia Sẻ



TIẾNG CHUÔNG ĐIỆN THOẠI


Anh chị em Tân tòng thân mến!

Tôi xin được thổ lộ cùng anh chị em ba vấn đề sau đây:

1/ Tại sao tôi lại xin gia nhập đạo Kitô - Đạo Công giáo. Thưa có 4 lý do sau đây:

- Tôi may mắn được quen thân một chứng nhân sống, đó là một người đàn bà Công giáo, tên bà là Teresa Nguyễn Thị Sa, người tỉnh Hà Đông, thuộc xứ Đại ơn, năm ấy bà khoảng 50 tuổi. Bà là một con người hiền lành, thật thà, chất phác, đạo đức, không mấy khi bà to tiếng với ai, thương con chiều chồng hết lòng… Có hai lần bà trao lại cho tôi một chiếc nhẫn vàng 2 chỉ và 1 túi tiền lương của hơn 20 cán bộ Bệnh viện mà tôi lĩnh hộ về nhà. Hai chỉ vàng tôi đánh rơi vài ngày không rõ nơi mất, còn túi tiền thì sáng ra đi làm vội, bỏ quên ở trước cửa nhà, nơi đó người qua lại nhiều, bà quét nhà tình cờ nhìn thấy.

Bà ít khi quên ơn ai đã giúp đỡ bà hoặc chồng con mình.

Bà chăm đi lễ nhà thờ, bà đã dẫn 2 cháu ngoại tôi đi học giáo lý, cháu trở nên ngoan ngoãn hơn nhiều. Hai cháu đều được rửa tội, mẹ cháu (con gái tôi) thấy vậy cũng đi học giáo lý và cũng được làm con Chúa.

- Lý do thứ hai: Tôi được bà cho 1 quyển kinh bổn do nhà thời Phát Diệm phát hành năm 1990. Bước đầu tôi được hiểu đạo Chúa rành rọt. Trong quyển sách đó có 10 điều răn, ai xem cũng làm lý thú lắm. Chúng tôi gọi nó là “Luật đề phòng” có nghĩa là điều luật ngăn không cho phạm tội, chứ không để chờ phạm tội rồi mới đem ra xét xử.
Kinh thứ hai tôi lấy làm tâm đắc là Kinh hoà bình. Nhiều người xem thấy chí lý quá, có người còn ghi chép vào sổ tay.

- Khi hiểu được đạo Chúa rồi, tôi muốn được ơn cứu rỗi, đó là lý do thứ ba.- Lý do thứ bốn người ta đồn ông cha cố ở đây giảng bài hay lắm, bài giảng của ông thường thấm sâu vào lòng người…
2/ Tôi xin được chia sẻ phần thứ hai: Những khó khăn gì trước ngày rửa tội, xin thưa có hai lý do: khách quan và chủ quan.
+ Khó khăn bên trong: đó là tâm trạng của sự lựa chọn.

Lựa chọn gì vậy? Thưa, tôi là một phật tử, tôi đã theo đạo Phật 10 năm rồi. Cửa Phật là nơi tôi tĩnh tâm rèn mình khỏi mắc phải những thói hư tật xấu của đời thường, không để mất hoặc giảm lương tri.

Tôi là một người thầy thuốc, địa vị ấy dễ bị sa ngã vì đồng tiền bất chính. Tôi ghi vào quyển sổ nhật ký lời Phật bà dạy như sau: “…Thương người Trời lại thương liền/ Của ta bỏ một Trời đền cho muôn/ Lượng Trời thật vô lượng vô cùng/ Làm công chớ nghĩ đến công/ Làm lành chớ để ở trong dạ này/ Thế mới là lòng ngay dạ thẳng/ Thế mới là phúc đẳng hà sa/ Con ơi hãy ngẫm cho ra/ Bên tiền bên đức con đà thử cân/ Tích đức được muôn năm bền chắc/ Bạc tiền rồi có lúc tan không…”

Thời gian ấy, các đền chùa, cho dù xa dù gần, dù nắng mưa gió rét tôi đều có mặt trong các ngày lễ lớn. Tôi đã rước Phật về thờ tại gia để dễ bề kinh nguyện sáng tối.

Tôi đã có lòng mến mộ Phật từ thời ấy, đến nay tôi lại chọn đi với Chúa, sự lựa chọn đó đã làm cho tôi trăn trở ngày đêm.

Có một câu chuyện mà làm cho tôi nhớ mãi: Có một hôm trong đêm khuya thanh vắng, tôi đang đọc sách bỗng có tiếng chuông điện thoại vang lên làm tôi giật mình, không ngờ đầu dây bên kia lại là tiếng gọi của một cháu bé gái lên 6, đã được rửa tội là cháu ngoại tôi. Nhấc máy lên “a lô, a lô, bà ngoại đấy à”, như ra lệnh cháu nói “một trong hai con đường bà chọn con đường nào? A ha…a ha” cháu cười nhạt. Tôi vẫn lắng nghe trong im lặng, cháu biết là tôi xúc động nên giọng cháu trầm lại “a lô, bà ơi bà, cháu xin lỗi bà, bà đừng khóc nữa, bà ơi! Bà cứ thắp hương cho Phật cũng được, nhưng thắp một cây thôi nhé”. Tôi chỉ ậm ừ, mãi cháu mới đặt máy xuống.

Đêm đó tôi không sao ngủ được, tôi ghi lại dòng tâm sự trong nước mắt:

Tâm tư

Đời con như giữa ngã ba
Theo Phật Kính Chúa xin Cha giãi bày
Đường nào con cũng mê say
Chư Phật dạy bảo những ngày còn thơ

Những điều răn ấy chưa mờ
Ơn nhờ Phật dạy không dơ mùi bùn

Đạo lý xuống dưới đất đen
Con như tắm giữa ao sen mát lành

Đến nay lại hiểu ngọn ngành
Chúa là Thiên Chúa Cha sinh rõ ràng
Chúa là con một Trời ban
Chúa xuống chuộc tội cứu đàn sinh linh
Trải bao cay đắng nhục hình
Cho ta có được hiển vinh đời đời
Thịt da máu Chúa rụng rơi
Là ơn cứu độ đời đời cho ta
0n Chúa vô vàn bao la
Con hiểu quá chậm xin Cha thương lòng
Con như những kẻ làm công
Hái nho được ít chắc không hề gì
Cha thương không phải nằn nì
Dù sớm dù muộn vẫn ghi công đều
Lạy xin Thiên Chúa Ba Ngôi
Cho con được đến làm tôi tớ Ngài

Đêm 28.9.97



+ Những khó khăn bên ngoài:
Tôi học xong lớp Giáo lý thứ nhất, con gái tôi rủ tôi đi học, cháu đã học được 5-6 bài rồi, cháu nói “học giáo lý Cha giảng hay lắm, mẹ đi học đi”, kỳ thi kiểm tra tôi cũng được trên điểm trung bình 15/20 điểm (điểm tối đa là 20 điểm)

Từ ngày ghi tên vào học lớp giáo lý, ngày nào tôi cũng đi tham dự thánh lễ ở nhà thờ Thái Hà.

Lòng mến Chúa trong tôi ngày một hơn, tôi quyết định xin Cha cho rửa tội, nhưng không thành! Tôi nhờ các ông bà đứng đầu Hội thánh thưa dùm. Nhưng…Cha cần có thời gian để thử thách.

Tôi không chán nản, nhưng trong lòng đôi lúc cũng buồn buồn. Nhất là trong các giờ thánh lễ, tôi phải ngồi yên một chỗ, nhìn mọi người lên rước Chúa, có lúc cũng rơm rớm nước mắt, và có phần ái ngại thấy người xung quanh nhìn mình.

Tôi lại ghi tên vào học lớp giáo lý thứ hai, ngay từ đầu tôi đã đặt cho mình một nhiệm vụ như là khoa cử.

Tôi nghiền ngẫm sách giáo lý và đọc thêm Kinh thánh, muốn hiểu sâu về Đạo Chúa, một phần nữa để tỏ cho Cha hiểu thêm về sự nhất tâm của mình.

Lớp giáo lý bế giảng, điểm thi của tôi…xin các bạn thử đoán là bao nhiêu điểm?

Nghi thức Thanh Tẩy làm con Chúa tôi không phải xin Cha xứ nữa, Ngài đã xếp ngày vui ấy rồi. Cả cộng đoàn trong Giáo xứ Thái Hà cùng hân hoan với tôi, lòng thư thái nhẹ nhàng, tâm hồn tôi lâng lâng như một giấc mơ…sau hai năm đã được thử thách.

Còn một tuần nữa thôi, tôi phải đến từng gia đình anh em họ hang để báo cáo, người thì ủng hộ kẻ thì miễn cưỡng, các bạn bè xa gần tôi đều báo tin hết, có người thì vui, có người thì băn khoăn chất vấn tôi. Tôi nói hết…chẳng việc gì phải úp mở.

Các bạn thân mến, thật là suôn sẻ, trong mọi việc như đã an bài.

Nhưng! Trong lòng tôi lại bứt rứt xốn xang làm sao?! Chẳng đêm nào tôi ngủ được, con gái tôi phải mời bà mẹ đỡ đầu của tôi (chính là bà Sa) để luôn ở bên tôi đọc kinh cầu nguyện cho tôi.

Phải chăng tâm trạng tôi đang phải cọ xát với sự lựa chọn…

Còn một đêm cuối cùng nữa là ngày vui đến, trong lòng tôi mới hết phân vân, không khí gia đình bớt trầm mặc.

Niềm vui và trách nhiệm đến với mọi người, ai cũng được phân công rõ ràng nhiệm vụ của ngày mai, ai mua hoa, ai dâng lễ, ai là quần áo, ai tiếp khách…

Rộn rã hẳn lên như đang chuẩn bị cho một ngày cưới. Chuông điện thoại réo lên cả ngày…nào bạn bè bà con xa gần chúc mừng, người thì xin địa chỉ để đến tham dự.

Đúng chiều ngày mồng 8 tháng 9, bạn bè xa gần họ hàng bà con có mặt đông đủ ở nhà thờ Thái Hà, bà con lối xóm cũng hoa, đàn ông đàn bà quần áo là lượt như đi Lễ cưới vậy. Ôi! buổi chiều hôm ấy rộn ràng làm sao, quang cảnh nhà thờ tưng bừng như ngày dạ hội. Ông Từ và các người trong xe kháo nhau: " Đám cưới nhà ai mà sang thế nhỉ sao chưa thấy cô dâu và chú rể đâu..."

18h30' tiếng chuông uy nghi reo lên, Cha chủ tế cùng đoàn người giúp lễ bước ra cung thánh đi thẳng xuống dưới cuối nhà thờ.

Đoàn người đông đảo phần lớn là bên lương, già trẻ gái trai, quần áo đủ mọi màu sắc sặc sỡ đang đứng chờ để tiến vào cung thánh.

Tôi bước đi như trên mây...

Thánh Lễ được cử hành đồng tế. Lòng rạo rực niềm vui...

Thánh Lễ xong, anh chị em trong gia đình bạn bè tôi và các trưởng hội đoàn trong giáo xứ còn bịn rịn với tôi trước ống kính chụp ảnh, giờ liên hoan, văn nghệ phát biểu cảm tưởng.

Cuối ngày, tôi ghi lại cảm nghĩ của mình:



Một ngày nhớ mãi

Chiều thu về tiết trời ảm đạm.
Lá vàng rơi... từ giã thân cây
Mà lòng dường những tràn đầy,
Mùa xuân đến giữa tháng ngày với ta.
Ai đem lại không gian trìu mến,
Con nhớ hoài nhớ mãi không thôi.
Trong con Chúa đến bồi hồi...
Lòng Cha, tình bạn người người nở hoa.
Đã bao năm con khao khát Chúa
Lòng ước mong xin Chúa về đây.
Chiều nay như giấc mơ say
Lòng con yêu Chúa ngày ngày đừng qua.

Sinh nhật Đức Mẹ- 1999



3/ Tôi xin chia sẻ phần cuối:
- Sau ngày Rửa tội còn khó khăn gì nữa không?. Xin thưa là không.

Tôi đã nắm bắt được người bên lương còn mặc cảm lớn với với Đạo Công giáo chúng ta điều gì. Đó là nghi thức thờ cúng ông bà tổ tiên. Ngày nào các cha cũng dâng Lễ cho các bậc tiền bối, cho các linh hồn...

Nhưng nghi thức cúng Lễ của người bên lương lại khác hẳn bên Giáo. Ngày Giỗ ngày Tết có gà, có mâm cao cỗ đầy, khói hương nghi ngút, trên bàn thờ mới là trọn nghĩa. Ngoài ra còn có các thủ tục khác nữa như đốt vàng mã...

Có một điều mà trước đây Giáo hội ta đã bỏ qua: Thắp hương, một nén hương tưởng nhớ đến người đã qua cũng chẳng thấy đâu? Cứ tưởng việc làm nhỏ nhặt, ngờ đâu lại ăn sâu vào tiềm thức của người lương: " Theo Chúa thì bỏ hết Giỗ Tết, cha mẹ, ông bà". Đó là mặc cảm lớn nhất của họ. Để xóa bỏ mặc cảm đó tôi phải làm gì? Trước hết ngày Giỗ ngày Tết tôi cũng phải làm y như mọi người trong gia đình, kể cả cúng vàng mã ( làm xong có khi tôi đi xưng tội hoặc khấn xin Đức Mẹ trước khi làm để mong được nhẹ tội. Để rồi dần dà...)

Còn những việc làm khác như hiếu hỉ thăm nom người đau ốm, giúp đỡ người sa cơ lỡ bước thì tôi cố gắng chu đáo hơn trước, chắc sẽ làm đẹp lòng Chúa hơn.

Tôi mỉm cười khi có tiếng xầm xì về tôi: " Người Công giáo như thím Sâm thì còn phải nói."

"Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa". Sau hơn một năm tôi được làm con cái Chúa, cậu em rể tôi cũng cho em gái tôi và cháu nội đến nhà thờ học Giáo lý. Sáu tháng sau cả hai bà cháu cũng được Rửa tội một ngày. Tin vui ấy được báo ra Hà Nội. Thế rồi gia đình tôi 7-8 người kéo nhau vào Nghệ An trước mấy ngày để tham dự Thánh Lễ. Chúng tôi muốn được tổ chức long trọng, lời đề nghị được Cha Xứ chấp nhận. Lễ nghi được tổ chức y như giáo xứ Thái Hà ta, mà ở xứ đó chưa bao giờ tổ chức như vậy. Nhân ngày Chầu lượt của xứ, tiếng đồn càng vang xa.

Có một câu chuyện tôi xin được kể lại. Sau buổi thánh Lễ đó có một người đàn bà trung tuổi quê ở Vinh đến gặp em tôi, tay bắt mặt mừng, chị nói: " buổi Lễ trọng thể quá, chị được nhìn thấy ơn Chúa quá, em là người Đạo gốc đây, em chúc mừng chị ". Chị nói với giọng đầy xúc động: " Làm sao mà chị theo Đạo sốt sắng thế, ngày mai em đến nhà chị chơi."

Thế rồi sáng sớm ngày hôm sau, người Đạo gốc ấy đến chơi với em tôi, chị tên là Maria Nguyễn thị Liên , chị tâm sự nhỏ to chuyện gia đình chị chị thành lập gia đình khi tuổi đã cao. Chồng chị là giám đốc khách sạn lớn ở Thành phố Vinh, anh chị có hai con lớn rồi mà vẫn chưa được Rửa tội. Từ ngày về nhà chồng chị không đi nhà thờ nữa. Mỗi lần chị đặt câu hỏi: " ai đem các chị vào Đạo, làm sao mà sốt sắng thế, em là Đạo gốc đây..." chị lại rơm rớm nước mắt. Ra về chị hứa sẽ đem xe đến đưa em tôi đi Lễ nhà thờ cách nhà em tôi 1 cây số .Từ đó hai chị em đi Lễ đều. Chúng tôi đã trở thành thân tín của nhau trong Chúa Kitô.

Nửa năm sau, tôi về thăm quê có ghé vào chơi nhà Liên. Tôi được xem một số tấm hình chụp trong ngày vui ở nhà Thờ hình được treo trên tường tại nhà Liên. Có các cha tham dự: Cha Khôi, chính xứ nhà thờ Cầu Rầm, cha Lợi, cha Tâm Giáo sư Chủng viện Vinh Thanh, còn có các sơ đang ở nhà chị Liên để đi học, có những tấm hình gia đình chị chụp chung với các ngài, có cả chồng con của chị Liên, nét mặt vui tươi rạng rỡ của mọi người cho ta cảm giác họ đang sống tin yêu hạnh phúc trong Chúa Kitô. Liên nói: " Chồng em ủng hộ hai cháu cũng muốn đi nhà thờ chị cầu nguyện cho em với, cho hai cháu được Rửa tội...".

Ngày tháng trôi qua, tôi đã được chính thức làm con Chúa gần 6 năm với 2 năm tìm hiểu Giáo lý. Tám năm qua lòng tin yêu của tôi với Chúa như được lớn dần lên, xin anh chị em cầu nguyện cho tôi với.

Chúng ta là dòng dõi của ông thánh Phaolô Tông đồ chúng ta hãy nắm chặt tay nhau và xin hứa với Ngài luôn sống sao trọn nghĩa với Ngài như Ngài đã sống trọn nghĩa với Chúa.

Xin hết lời và xin cảm ơn anh chị em.


Hà Nội, ngày 08.08.2005
Bác sĩ Maria Anphongso Hoàng Lệ Sâm

--------------------------------------------------------------------------------

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2011

Anh chị em của tôi - nước Nhật Khát khao Thiên Chúa trong hy vọng vươn lên từ đổ nát !


Khát vọng

Trong những ngày qua, cùng với tin tức về thảm họa động đất và sóng thần tại Nhật Bản, có rất nhiều bài viết ca tụng người dân Nhật. Chẳng hạn, trên báo Tuổi Trẻ, số Chúa nhật 20-3-2011, một tác giả kể rằng ông không tin vào những điều người ta ca tụng dân Nhật “bình tĩnh, trật tự trong và sau trận động đất kinh hoàng”. Lý do là vì ông “đã chứng kiến tận mắt rất nhiều người cứ hay thổi phồng những câu chuyện họ thấy ở nước ngoài để dạy dỗ ngược trở lại những điều diễn ra ở Việt Nam”. Nhưng lần này ông buộc phải nghĩ lại khi nhìn thấy “những hình ảnh của người dân Nhật trong và sau sự cố được phát trên bản tin thời sự của VTV: những người dân quy củ xếp hàng nhận đồ cứu tế, dòng người xếp hàng nhiều đến nỗi người ta không thể đứng thành một hàng dọc, mà phải uốn thành hình cong trong một trật tự đáng khâm phục”.

Đúng là cả thế giới phải khâm phục dân tộc Nhật Bản. Trước đây người ta khâm phục Nhật Bản về những tiến bộ kỹ thuật và phát triển xã hội, nhưng bây giờ người ta thấy rõ hơn và khâm phục cái làm nên những tiến bộ và phát triển đó, chính là những người dân Nhật Bản. Nhiều cơ quan truyền thông không ngần ngại gọi Nhật Bản là dân tộc vĩ đại.

Tuy nhiên, cùng với sự khâm phục đó, có một thực trạng khác không nên quên: tại Nhật Bản, mỗi ngày trung bình có 100 người tự tử. Riêng trong năm 2007, số người Nhật tự tử là 33.093 người. Con số này có chiều hướng gia tăng chứ không giảm. Cụ thể là so với năm 2006, số người tự tử tăng 3%. Thế nên một trong những cam kết của Chính phủ mới là nỗ lực kéo tỷ lệ tự tử xuống. Với số người tự tử cao như thế, thiệt hại nhân mạng trong thảm họa sóng thần và động đất vừa qua, tuy khủng khiếp nhưng mới chỉ bằng một nửa.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao người dân sống trong một đất nước giàu có và văn minh như thế lại muốn tìm đến cái chết đông như vậy? Có thể có nhiều cách trả lời. Tôi đặc biệt chú ý đến bài viết của nhà văn người Nhật Ryu Murakami trên tờ New York Times ngày 16-3-2011. Ông là một cây viết nổi tiếng đã được trao tặng nhiều giải thưởng tại Nhật. Khi thảm họa xảy ra, từ Tokyo, nhà văn mô tả tình trạng động đất và những tác động trong đời sống người dân Nhật. Sau đó ông viết: “Cách đây 10 năm tôi có viết cuốn tiểu thuyết trong đó có kể câu chuyện một học sinh trung học đã tuyên bố trước quốc hội: Đất nước này thừa mứa mọi thứ. Ở đây người ta có thể tìm được mọi thứ mình muốn. Cái thiếu duy nhất là hi vọng”.

Lại chẳng phải là lời lý giải sâu sắc cho tình trạng tự tử hay sao? “Cái thiếu duy nhất là hi vọng”. Đã không còn hi vọng nữa thì sống làm gì? Một cuộc sống vô nghĩa, và vì thế, cần phải chấm dứt. Như thế, cái mà con người cần, cái đem lại hạnh phúc cho con người không chỉ là những tiến bộ kỹ thuật và sự giàu có thịnh vượng vật chất nhưng còn là niềm hi vọng.

Thế rồi Ryu Murakami hân hoan loan báo: “Bất kể những gì đã mất, người Nhật chúng ta đã tìm lại được một điều, đó là hi vọng. Cơn động đất sóng thần kinh hoàng đã cướp mất của chúng ta bao sinh mạng và bao nguồn của cải. Nhưng chúng ta, những người từng thừa mứa với sự thịnh vượng của mình, nay đang gieo trồng lại hạt mầm của hi vọng”. Hay quá! Nhưng niềm hi vọng mà nhà văn vui mừng loan báo là gì vậy? Ấy là vì trước đây người ta có đủ mọi thứ ngoại trừ hi vọng, còn bây giờ thì ngược lại: “Các trung tâm di tản đang phải đối mặt với bao thiếu thốn nghiêm trọng về thực phẩm, nước ngọt và thuốc men. Thiếu cả lương thực và điện ngay tại khu vực Tokyo. Cuộc sống của người dân đang bị đe dọa. Chính phủ và các cơ quan dịch vụ công đã không phản ứng đúng như lẽ ra phải có”. Chính tình trạng thiếu thốn đó khiến cho người ta phải đợi chờ và biết hi vọng vào tương lai tươi sáng hơn.

Hóa ra vậy! Bỗng cảm thấy chút thất vọng khi bài báo chỉ ngưng lại ở đó. Thất vọng vì tự nghĩ: đối với một dân tộc giàu có và hùng mạnh như dân Nhật, chắc sẽ không lâu để mọi sự đi vào ổn định. Sẽ không còn cảnh xếp hàng nhận đồ cứu tế hay đổ xăng. Sẽ không còn những kệ hàng trống vắng trong các siêu thị. Sẽ không còn những trại tạm cư thiếu thốn, và trên đống hoang tàn đổ nát sẽ mọc lên những ngôi nhà mới còn đẹp đẽ hơn bội phần. Lại sẽ thừa mứa mọi thứ. Phải chăng đến lúc đó – và không xa lắm đâu – niềm hi vọng lại sẽ lụi tàn? Lại sẽ tự tử mỗi năm mỗi nhiều hơn?

Nếu chân trời hi vọng chỉ là sự thịnh vượng và giàu có vật chất thì đúng là thế. Thành ra câu hỏi cốt yếu ở đây là câu hỏi về chân trời hi vọng của con người. Trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, từ vị trí của một người xin nước uống: “Chị cho tôi xin chút nước uống” (Ga 4,7), Chúa Giêsu giúp chị phụ nữ khám phá khát vọng sâu kín trong lòng chị, khát vọng mà không có ai và không có gì trong cuộc đời này có thể lấp đầy: “Chị nói tôi không có chồng là đúng vì chị đã năm đời chồng rồi và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (4,19). Rồi từ đó, Người giúp chị khám phá nguồn nước hằng sống có khả năng lấp đầy khát vọng của lòng người: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với chị “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin và người ấy sẽ ban cho chị nước hằng sống” (4,10).

Phải chăng đây là thách đố lớn nhất cho Hội Thánh trong nền văn hóa kỹ trị và duy vật ngày nay: đồng hành với con người trong mọi nỗi niềm cuộc sống để cùng với họ khám phá khát vọng sâu xa trong lòng người, và mạnh dạn giới thiệu với họ Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ? Người Kitô hữu có thể đáp trả thách đố này nếu niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô thực sự trở thành xác tín cá nhân xuyên qua những trải nghiệm của đời sống. Đó chính là con đường thánh Augustinô đã kinh qua để trở thành người loan báo Tin Mừng. Rất nhẹ nhàng mà đầy sức thuyết phục: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

(26-03-2011)

Theo Website Hdgmvietnam.org

Chúa Giê-su Khát các tâm hồn nơi Tòa Giải Tội !


Giá trị giáo dục của bí tích Hòa giải

WHĐ (27.03.2011) – Sáng 25-03, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã tiếp kiến các đại biểu tham dự hội thảo do Tòa Ân giải tổ chức. Đức Hồng y Chủ tịch Fortunato Baldelli và Đức cha Gianfranco Girotti, OFM, Nhiếp chính Tòa Ân giải, đã dẫn đầu phái đoàn yết kiến ĐTC.

Bài huấn từ của ĐTC trong buổi tiếp kiến đề cập đến giá trị giáo dục của bí tích Hòa giải đối với linh mục ban bí tích, cũng như đối với hối nhân lãnh nhận bí tích.

ĐTC nói: “Linh mục được trao một nhiệm vụ độc đáo, riêng biệt, giống như một đài thiên văn để hằng ngày đều được chiêm ngắm vẻ huy hoàng của lòng Chúa thương xót… Được trao trách nhiệm quản lý bí tích Hòa giải, mỗi linh mục phải học sống khiêm hạ và tin tưởng, đồng thời được thúc giục mạnh mẽ phải ý thức về căn tính của mình. Nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng nhân loại, linh mục không bao giờ có thể nghe được những lời xưng tội của anh chị em mình. Sở dĩ họ đến với linh mục vì linh mục được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, vị linh mục tối cao và đời đời, nên có thể hành động nhân danh Ngài và trong tư cách của Ngài. Qua linh mục, Chúa thực sự hiện diện, ban ơn tha thứ, canh tân và làm cho biến đổi”.

ĐTC nhắn nhủ các linh mục, những người được trao năng quyền tha tội: “Khi cử hành bí tích Hòa giải, chính linh mục cũng được Chúa dạy bảo về đức Tin, về sự thật và sự thiếu thốn của bản thân, bồi dưỡng ý thức về căn tính bí tích của mình”.

ĐTC tiếp tục bài huấn từ: “Rõ ràng việc lãnh nhận bí tích Hòa giải đặc biệt thể hiện sự tự do và ý thức về bản thân. Do đó trong thời đại phát triển chủ nghĩa tương đối và mất dần ý thức về bản thân, người ta ngày càng ít đến với tòa cáo giải. Việc xét mình xưng tội mang giá trị giáo dục rất lớn, dạy chúng ta biết chân thành nhìn nhận cuộc sống của mình, đối chiếu với chân lý Tin Mừng, thẩm định cuộc sống không chỉ bằng những thông số nhân loại mà do ơn Chúa soi sáng. Bài học lớn lao đầu tiên được dạy ở trường bí tích Hòa giải là biết sống với các Điều răn, các mối Phúc thật và Lệnh truyền yêu thương”.

Kết thúc bài huấn từ, ĐTC nhắn nhủ các linh mục:

“Các linh mục thân mến, anh em đừng quên sắp xếp cho việc ngồi tòa giải tội trong các hoạt động mục vụ của mình một cách thích đáng. Biết đón nhận và lắng nghe chính là dấu chỉ nhân văn về Thiên Chúa đang đón nhận và thương yêu con cái của Ngài. Việc xưng hết các tội giúp hối nhân biết sống khiêm nhường, nhận ra mình yếu đuối, đồng thời ý thức mình cần được Chúa tha thứ và tin rằng ơn Chúa sẽ giúp thay đổi đời sống”.


(Theo VIS)

Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2011

Lễ Truyền Tin 2011 ! Ý Nghĩa Lịch Sử và Phụng Vụ Công Giáo !


Lễ Truyền Tin
--------------------------------------------------------------------------------

L.m. Phêrô, CMC
I. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Lễ Truyền tin được mừng đầu tiên tại Giáo hội Đông phương vào Chúa nhật I mùa Vọng từ thế kỷ IV hay thế kỷ V để kính nhớ mầu nhiệm Nhập Thể. Đến thế kỷ VII, lễ này lan sang Giáo hội Tây phương để kỷ niệm Đức Trinh Nữ Maria chịu thai Ngôi Lời Nhập Thể, đồng thời kỷ niệm Chúa Kitô được xức dầu làm Thượng Tế và làm Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người. Đức Thánh Sergiô I lập bốn lễ: Lễ Đức Mẹ tịnh tẩy, dâng Con vào đền thờ, lễ Truyền tin, lễ Sinh nhật Đức Mẹ, và lễ Đức Mẹ lên trời. Mỗi dịp lễ này, ngài truyền dạy tổ chức cuộc rước Đức Mẹ từ nhà thờ Thánh Adrianô về đền thờ Đức Bà Cả tại Rôma. Thánh Phêrô Kim ngôn đã giảng nhiều trong lễ Truyền tin.
Thánh Augustinô đã đề nghị mừng lễ Truyền tin vào ngày 25 tháng 3 cho đúng chín tháng trước lễ Giáng sinh, nhưng Giáo hội Tây Ban Nha không đồng ý, nên Công đồng Toleđô năm 656 ấn định mừng tám ngày trước lễ Giáng sinh rồi đổi sang ngày 18 tháng Giêng để tránh mùa Chay. Đức Bênêđictô XIV ra sắc lệnh ấn định khắp Giáo hội mừng lễ Truyền tin vào ngày 25 tháng 3 theo Thánh Augustinô đã đề nghị và như ngày nay.
Năm 1884 Công đồng Baltimore quyết định lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3 là lễ nghỉ và lễ buộc cho Giáo hội Hoa Kỳ.

II. Ý NGHĨA PHỤNG VỤLịch Rôma thời xưa trọng thể mừng "lễ Ngôi Lời nhập thể" gọi là "Lễ Truyền tin của Chúa". Lễ này đã được sửa đổi lại nhưng là lễ mừng Chúa Kitô và Đức Trinh Nữ. Mừng Chúa là Ngôi Lời trở thành Con Mẹ Maria (Mc 6:3). Mừng Đức Trinh Nữ trở thành Mẹ Thiên Chúa.

* Về Chúa Kitô, Phụng vụ Đông phương và Tây phương mừng lễ trọng này để kính nhớ "lời xin vâng" của Ngôi Lời nhập thể vào trần gian đã nói: "Lạy Chúa, này con đây. Con xin đến để thực thi ý Chúa" (xem Dt 10:7; Tv 39:8-9). Lễ này cũng kính nhớ giây phút đầu tiên của ơn Cứu chuộc và mối tơ duyên kết hợp bất khả phân ly của Thiên tính với nhân tính trong một ngôi vị của Ngôi Lời.

* Về Mẹ Maria, Phụng vụ Đông phương và Tây phương mừng lễ trọng này như một lễ của Tân Evà là Đức Trinh Nữ tuân phục và trung thành. Với lời thưa "Xin vâng quảng đại", bởi phép Chúa Thánh Thần, Mẹ đã trở nên Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ chúng sinh. Và bởi nhận trong cung lòng một Đấng trung gian (1 Tm 2:5), Mẹ thật sự trở nên Hòm bia Giao ước và Đền thờ Thiên Chúa. Phụng vụ này cũng kính nhớ thời điểm cao chót của cuộc đối thoại cứu độ giữa Thiên Chúa và loài người, và kính nhớ sự tự tình chấp nhận và hợp tác của Đức Trinh Nữ trong công trình Cứu chuộc.

III. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ

Bài đọc I: Isaia 7:10-14

Thời vua Akhaz cai trị nước Giuđêa, vua Aram và vua Ephraim định lên đánh chiếm thành Giêrusalem. Vua Akhaz hoảng sợ. Giavê sai Isaia nói với vua Akhaz: "Hãy ở yên. Đừng sợ. Lòng chớ bủn rủn". Isaia bảo vua Akhaz phải đặt lòng tin vào Giavê trong giờ nguy kịch cho triều đại Đavít. Isaia lại nói với vua Akhaz: "Hãy xin với Giavê, Thiên Chúa ngươi, một dấu". Nhưng Akhaz nói: "Tôi đâu dám xin thế. Tôi không muốn thử sức Giavê". Ngài mới nói: "Hỡi nhà Đavít, hãy nghe đây... chính Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh Con và Bà sẽ gọi tên Con là Emmanuel". Thánh sử Matthêô giải thích lời tiên tri này nói về Trinh Nữ của lễ Truyền tin là "Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1:22-23).

Bài đọc II: Do thái 10:4-10

Chức tư tế thời Cựu ước tương phản chức tư tế của Chúa Kitô: Hy lễ Cựu ước không trừ được tội lỗi, nên Chúa Kitô đã đến, hiến dâng mình Ngài duy một lần mà chúng ta được ơn cứu thoát.

Phúc âm: Luca 1:26-38

Thánh sử Luca trình thuật cuộc đàm đạo giữa thiên sứ Gabrie và Trinh nữ Maria tại căn nhà Nazaréth xứ Galilêa. Thiên sứ chào chúc Trinh Nữ "đầy ơn phúc" làm Trinh Nữ xao xuyến. Thiên sứ trấn an Trinh Nữ và loan báo "Trinh Nữ sẽ thụ thai sinh con trai sẽ gọi tên là Giêsu. Ngài là Con Đấng tối cao. Ngài sẽ lên ngai Đavít, làm vua trên nhà Giacob đến đời đời. Vương quyền Ngài vô tận". Trinh Nữ thắc mắc: "Làm sao điều đó xảy ra được vì tôi giữ mình đồng trinh". Thiên sứ giải thích: "Thánh Thần sẽ đến trên tôn nương và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên tôn nương, nên con tôn nương sẽ là Đấng Thánh là Con Thiên Chúa". Thiên sứ đưa tin bà Elizabéth già và son sẻ mà đã mang thai sáu tháng để minh chứng: "Với Thiên Chúa, không gì là không có thể". Trinh Nữ đầy lòng tin và ưng thuận.

Lễ Truyền Tin 2011 !


Lễ Truyền Tin
LM. Giuse Trương Đình Hiền

Truyền tin: Để Thiên Chúa tiếp tục ‘vào đời”

Dẫn nhập đầu lễ: Kính thưa Cộng đoàn,
Chín tháng trước lễ Giáng Sinh, Giáo Hội mừng lễ Truyền Tin.
Chúng ta vẫn thường ngộ nhận về ý nghĩa trọng tâm của mầu nhiệm Truyền Tin khi cho rằng Lễ Truyền Tin là lễ về Đức Mẹ.
Không phải thế. Cho dù Đức Maria liên kết chặt chẽ với biến cố “Ngôi Hai nhập thể làm người” để từ đó Mẹ đã trở thành “Mẹ Thiên Chúa”, Thì trung tâm của cử hành phụng vụ lễ Truyền Tin hôm nay lại chính là Ngôi Lời nhập thể, Đấng hôm nay “cất bước vào đời” với thái độ xin vâng trọn hảo: “Nầy Con xin đế để thực thi thánh ý Cha”.
Tuy nhiên, để đóng góp phần mình vào công trình cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta đặc biệt chiêm ngưỡng Đức Maria trong cung cách Mẹ nói lời xin vâng với Thiên Chúa để nhận lời cưu mang Chúa Giêsu trong cung lòng trinh khiết hầu ban ơn cứu độ cho nhân loại, cho mọi người.
Giờ đây, chúng ta hãy thành tâm sám hối để xứng đáng cử hành thánh lễ.
Giảng Lời Chúa: Nếu có lời Kinh Thánh nào được đọc nhiều nhất trên môi miệng nhân loại, thì đó chính là lời thiên sứ chào kính Trinh nữ Maria trong biến cố Truyền tin mà hôm nay Phụng vụ Lời Chúa đang công bố giữa cộng đoàn chúng ta: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà”.
Tại sao câu Lời Chúa giản đơn ấy lại được cái vinh dự lớn lao như thế ? Giản đơn, vì những lời trên có liên quan đến một mầu nhiệm vĩ đại, một biến cố “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử nhân loại: mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể làm người.
Vâng, Lời chào của thiên sứ Gabriel chính là TIN VUI trọng đại báo tin thời khắc thiêng liêng và tối ư quan trọng mà Thiên Chúa đã chuẩn bị lâu dài ngút mắt và nhân loại đã ngóng trông đến mõi mòn: Thiên Chúa chuẩn bị để hiện thực lời hứa thuở ban đầu “dòng giống người nữ sẽ đạp dập đầu ngươi”, và nhân loại mõi mòn ngóng đợi “Vị cứu tinh” quang lâm để dựng xây “vương quốc Thiên Chúa”.
Bời vì, mầu nhiệm Nhập Thể đã thực sự bắt đầu từ sau tiếng XIN VÂNG can đảm và ngoan ngùy đó: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Phụng vụ truyền Tin chợt về giữa Mùa Chay Thánh. Như vậy mầu nhiệm Truyền Tin hôm nay thật sự muốn nới gì với chúng ta ?
1. Muốn nói với chúng ta rằng: phải luôn yêu cuộc sống !Vì yêu cuộc sống nên sau lời “Xin vâng” của Đức Trinh nữ Maria, tức khắc Ngôi Lời đã trở thành một thai nhi. Con Thiên Chúa mang lấy thân phận và cuộc sống loài người. Và kể từ đó, Ngôi Hai Thiên Chúa đã bắt đầu chọn đi trên nẻo bấp bênh của kiếp phận con người: lớn lên chín tháng trong lòng mẹ như bao vạn triệu con người để rồi cất tiếng khóc oa oa chào đời giữa đêm đông giá rét. Ngài đã không chọn cách kiểu vào đời oai phong lẫm lẫm bước xuống từ trời như một thiên sứ giáng lâm, mà Ngài cần sự sống được chuyển thông từ dòng sửa mẹ, để đi ra cuộc đời bằng xác thân mỏng manh yếu đuối.
Vì yêu cuộc sống lầm than nhân loại nên Ngài không chọn gác tía lầu son để xa xôi cách biệt giữa Thiên Chúa Tối Cao với đớn hèn nhân loại, nhưng đã sẻ chia trọn vẹn phận người như ta ngoại trừ tội lỗi. Cuộc sống của Ngôi Lời quyền năng từ đây sẽ là cuộc hành trình mang theo tất cả buồn vui, âu lo, trăn trở; sẽ đong đầy nước mắt đoạn trường, sẽ dập dìu những đau thương khổ lụy. Cuộc sống của Ngài phản ảnh chính cuộc đời của Mẹ mà sau đó chẳng bao lâu đã được ông già Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu cõi lòng bà” (Lc 2, 35).
Vì yêu cuộc sống nên Ngài đâu dám xem thường lưỡi gươm truy sát của bạo chúa Hêrôđê nên đã tất tả trốn sang Ai Cập; vì yêu cuộc sống đó nên Ngài đã chấp nhận lao động vất vả bằng nghề thợ mộc để nuôi sống bản thân và phụng dưỡng cha mẹ. Vì yêu cuộc sống đó nên Ngài không cầm lòng để người chị Matta, Maria phải mất em, để mẹ già thành Naim vĩnh biệt con trai yêu dấu, để ông Giairô mất đứa con gái rượu, nên đã quyết định thi thố quyền năng “hoàn sanh cải tử”. Vì yêu cuộc sống nên Ngài cảm thông nổi thất vọng ê chề của những người phong cùi, mù què, câm, điếc, quỷ ám, bại liệt…nên đã ra tay phục hoạt chữa lành. Vì yêu cuộc sống nên Ngài đã đem niềm hy vọng làm lại cuộc đời cho Mai-đệ-liên, xóa đi nổi hổ thẹn ê chề của người phụ nữ ngoại tình bị loài người kết án. Vì yêu cuộc sống nên Ngài đã động lòng xót thương mấy ngàn người bơ vơ như chiên không người chăn và đã làm phép lạ bánh, cá hóa nhiều để cho họ no lòng chắc dạ trên đường từ hoang mạc về nhà…Và vì yêu cuộc sống, cuộc sống vĩnh cửu của mọi con người, nên Ngài đã chấp nhận “trở thành hạt lúa mì chôn vào lòng đất” qua cái chết tủi nhục đau thương để rồi sống lại trong vinh quang bất diệt.

Và Lời Chúa hôm nay còn nói gì với ta nữa ?

2/. Muốn nới với chúng ta rằng: phải luôn yêu con người.
Mầu nhiệm Truyền tin hôm nay đã hiện thực hóa chính lời ngôn sứ Isaia báo trước: “Nầy đây một Trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.(BĐ 1)
Emmanuen: đó chẳng phải là: khi dấn bước vào đời, Con Thiên Chúa muốn đích thân kết bạn với chúng ta cho dù tội lỗi đã làm cho ta mất đi khuôn mặt giống ảnh hình Thiên Chúa.
Emmanuen: đó chẳng phải là: khi mang lấy khuôn mặt loài người, Ngôi Lời đã dạy chúng ta phải yêu thương con người, bởi vì kể từ biến cố nầy, khuôn mặt của nhân loại sẽ lại được tái tạo sao cho giống ảnh hình của Thiên Chúa, con của một Cha, anh em một nhà, cho dù khác nhau về màu da, tôn giáo, ngôn ngữ, ý thức hệ…
Trong một thế giới mà nạn tàn sát sự sống thai nhi đã đến hồi nghiêm trọng cảnh báo, một thế giới mà quyền sống và tự do của con người vẫn bị chà đạp, nạn chiến tranh, khủng bố, bạo lực lan tràn khắp chốn…, thì “Sứ điệp Truyền Tin” hôm nay quả thật cần thiết để suy niệm và thực hành, để lắng nghe và cầu nguyện để sống và làm chứng ! Bước theo Ngôi Lời nhập thể, chúng ta yêu cuộc sống, yêu con người, chúng ta tích cực dấn thân để vun đắp nền “văn minh sự sống” và can đảm nói không với mãnh lực của nền văn hóa sự chết.
3. Và điều cuối cùng mà sứ điệp Phụng vụ hôm nay nhắn gởi đó chính là: Hãy luôn trở thành địa chỉ đáng tin cậy để Thiên Chúa tiếp tục truyền tin.
Ở Na-da-rét trong thời gian cách nhau chỉ 6 tháng nhưng đã có hai cuộc Truyền tin: Truyền tin cho Giacaria và truyền tin cho Đức Mẹ. Giacaria bị câm vì hồ nghi Tin vui của Thiên Chúa. Trong khi đó Đức Maria đã mở miệng xin vâng và sau đó là lời ca khen chúc tụng với bài Magnificat. Đến với Mẹ Maria, quả thật, thiên sứ Gabriel đã tìm đúng địa chỉ.
Bởi vì, như lời nhạc trong ca khúc của Trầm Hương, “Mẹ thưa xin vâng, xin vâng trọn thánh ý Chúa Cha, Mẹ thưa xin vâng với Tin Mừng của Con Chí Thánh. Mẹ thưa xin vâng với tác động của Chúa Thánh Linh…”, cho nên kể “từ lúc Mẹ nói lời xin vâng, Mẹ trở nên Thánh Mẫu tuyệt vời…kỷ nguyên mới đã đến trong đời…Ngôi Lời Thiên Chúa đến với nhân loại…Huyền diệu quá muôn đời tiếng Xin Vâng” !
Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục “truyền tin” và Ngài vẫn luôn cần những địa chỉ như thế để Lời Thiên Chúa được đón nhận và thực hiện.
Lễ Truyền Tin về giữa Mùa Chay thánh, mùa Phụng vụ âm vang tiếng Chúa mời gọi chúng ta sám hối và tin vào Tin Mừng, mùa của thống hối ăn ăn, mùa của đổi mới cuộc đời, quay trở về với Chúa, với anh em, với sứ điệp tình yêu của Chúa Giêsu, với con đường của hy sinh thập giá và hy vọng phục sinh. Cùng với lời gọi mời của Mùa Chay thánh đó, sứ điệp Truyền Tin hôm nay đang khơi dậy nơi chúng ta lời “Xin Vâng” của Ngôi Lời Nhập Thể: “Nầy con xin đến để thực thi thánh ý Cha”, lời “xin vâng” của Mẹ Maria, khi Mẹ chấp nhận chia sẻ và đi trên con đường cứu độ của Con từ những tháng năm tất tả khổ cực của Bê Lem, Na-da-rét cho đến đĩnh đồi Núi Sọ khi chứng kiến cái chết nhục hình của Con Mẹ trên thập giá.
Và như thế, sống Mùa Chay Chay hay sống sứ điệp Truyền Tin đó chính là hãy biến mình thành một địa chỉ đáng tin cậy như Đức Maria để Thiên Chúa tiếp tục “truyền tin” cứu độ, để Thiên Chúa tiếp tục vào đời bằng đôi mắt, đôi tay, bằng trái tim và khối óc của chính chúng ta như ngụ ý của một bài thơ:
Mẹ Maria cho Thiên Chúa một thân xác, hình hài để mắt trần có thể nhìn thấy, để Ngài chạm đến vết thương đau của những người phong cùi. Mẹ Maria cho Thiên Chúa đôi tay để chúc lành các trẻ thơ bé nhỏ, để làm phép lạ nuôi đám đông no nê. Mẹ Maria cho Thiên Chúa đôi chân để đi đến với người đau yếu, để kiếm tìm người tội lỗi. Mẹ cho Thiên Chúa đôi mắt để khóc thương bên nấm mồ người bạn, để nhìn vào tận đáy lòng con người. …
Lạy Mẹ Maria, Xin Mẹ giúp chúng con biết sống xin vâng như Mẹ với trái tim thảo hiền. Amen.



Thứ Hai, 14 tháng 3, 2011

Lời Sống mỗi ngày mùa chay 2011 !


Làm cho chính Ta (14.3.2011 – Thứ hai Tuần 1 Mùa Chay)


Làm cho chính Ta

Lời Chúa: Mt 25, 31-46

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” Ðể đáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Rồi Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom.” Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc là trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.” Thế là họ sẽ ra đi, bọn này để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính, để hưởng sự sống muôn đời.”

Suy niệm:
Thi hào Tagore trong tập thơ Gitanjali, bài số 50,
có kể chuyện một người ăn xin, tình cờ gặp nhà vua đi trên cỗ xe.
Anh đầy tràn hy vọng khi cỗ xe dừng lại gần anh, và nhà vua bước xuống.
Anh cứ nghĩ nhà vua sẽ cho anh thật nhiều, nhưng ngài lại chìa tay xin anh.
Người hành khất biết lấy gì mà cho, anh chỉ dâng ngài một hạt lúa nhỏ xíu.
Đến lúc chiều về, khi đổ những thứ trong bị ra, anh thấy một hạt vàng rất nhỏ.
Anh khóc vì tiếc mình đã không cho ngài tất cả những gì mình có.
Có khi nào nhà vua giàu có ngửa tay xin một người ăn mày không ?


Hơn nữa, có khi nào Đức Kitô ẩn mình dưới dạng một người ăn xin không ?
Trên chuyến xe lửa đi về vùng Darjeeling ở chân núi Hy-mã-lạp-sơn, năm 1946,
Chị Têrêsa Calcutta đã nhận được một ơn gọi thứ hai, dù chị đang tu ở dòng Loreto.
“Chính trong chuyến xe lửa đó, tôi đã nghe tiếng gọi bỏ tất cả
và theo Ngài vào khu ổ chuột – phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất.”
Chị đã viết như thế, và chị còn giải thích thêm :
“Thiên Chúa gọi tôi để làm giảm cơn khát của Đức Giêsu
bằng cách phục vụ Ngài nơi người nghèo nhất trong số các người nghèo.”
Chị Têrêsa được ơn gặp Đức Giêsu Kitô đang đói khát, đang ở khu ổ chuột.
Chị đã cho Ngài tất cả và chị không bao giờ phải ân hận về chuyện đó.


Bài Tin Mừng hôm nay hẳn đã chi phối đời của chân phước Têrêsa Calcutta.
Bài này cũng hợp với Mùa Chay, mùa chia sẻ, mùa làm việc bác ái.
Hơn nữa bài này vén mở cho ta thấy một lối hiện diện khác của Đức Giêsu.
Ngài không chỉ hiện diện nơi tấm bánh thánh, nơi tâm hồn ta, nơi Giáo hội,
mà Ngài còn ở nơi những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù.
Khuôn mặt của Ngài xem ra chẳng có gì cao quý, uy nghi, sáng láng,
nhưng đầy nét đau khổ, nhục nhằn, phiền muộn.
Đức Giêsu ở đây không phải là người ban phát đầy quyền năng,
mà là người ăn xin yếu đuối ngửa tay cần ta giúp đỡ.
“Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây,
là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (c. 40).
Ngài gọi những người khốn cùng trong xã hội là anh em nhỏ nhất của Ngài.
Làm cho họ là làm cho chính Ngài, chối từ họ là chối từ chính Ngài.
Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu.
Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tỵ nạn,
nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.
Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.

Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.



Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Những Cơn Cám Dỗ ngọt ngào muôn thuở !





Cám dỗ

Đã mang thân phận con người, chẳng ai thoát khỏi cám dỗ. Cám dỗ luôn thường trực trong cuộc sống hằng ngày, như tấm lưới mạng nhện khổng lồ sẵn sàng chụp xuống để bao bọc và giết chết con mồi. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”, đối diện với cám dỗ cũng là dịp để chúng ta khẳng định mình, nhờ đó mà có thêm kinh nghiệm trên bước đường trần gian.

Cám dỗ là gì?

– Là khơi dậy lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã (Từ điển bách khoa W).
– Là tìm mọi cách quyến rũ làm việc gì không hay (Từ điền từ và ngữ Việt Nam – Nguyễn Lân, nxb Tp HCM 1998).

Hai định nghĩa trên cho thấy động lực của cám dỗ đều là xấu, đi ngược lại với luân thường đạo lý và để lại những hậu quả không tốt nơi bản thân cũng như nơi những người xung quanh.
Cám dỗ chẳng buông tha ai. Khi suy nghĩ về cuộc đời, cụ Tú Xương đã phải thốt lên:
“Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà”.
Đối với cụ Tú Xương, là người vui với rượu, buồn với trăng và chí thiết cùng thơ, chỉ có “ba cái lăng nhăng” được nhận diện trong một đại dương những cám dỗ đang muốn nhấn chìm con người. Trong thực tế, những cơn cám dỗ không dừng lại ở con số thống kê, nhưng nó đa dạng, muôn màu muôn vẻ. Cám dỗ thường núp bóng dưới những ngôn từ bóng bẩy và những lời mời chào đường mật. “Mật ngọt chết ruồi”, biết bao người đã dại dột ảo tưởng nghe theo và khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn màng. Trong thời buổi kinh tế thị trường, những cơn cám dỗ cũng kèm theo một “nghệ thuật tiếp thị” với những viễn tượng huy hoàng đầy ma lực hấp dẫn. Xin đưa ra vài nhận định về những loại hình cám dỗ trong cuộc sống hôm nay.
1- Loại hình cám dỗ thứ nhất là phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa
Núp dưới những danh từ rất ấn tượng như “nhân bản”, “tự do”, “giải phóng”, một số người muốn phủ nhận Thiên Chúa và tuyên dương chủ nghĩa vô thần. Họ hô to khẩu hiệu: “Thiên Chúa đã chết”, hoặc “Tôn giáo là thuốc phiện mê dân”. Họ coi con người chính là những “thượng đế”. Họ phủ nhận mọi tôn giáo cũng như các thần linh. Đây cũng là cơn cám dỗ của ông bà nguyên tổ Ađam và Evà. Con rắn đã dùng những lời ngọt nào để dụ dỗ ông bà bỏ qua lệnh truyền của Chúa. Vì muốn được ngang hàng với Thiên Chúa, ông bà đã phủ nhận thân phận thụ tạo của mình. Khi muốn “biết sự thiện sự dữ”, ông bà không chỉ muốn trở nên những người khôn ngoan, nhưng còn muốn nắm quyền bá chủ, vì biết sự thiện sự ác là vai trò của một quan tòa, nhằm đưa ra những kết luận để tuyên phạt các tội nhân. Trong xã hội hôm nay, do ảnh hưởng của chủ thuyết tương đối, người ta muốn cào bằng mọi tôn giáo cũng như mọi giá trị luân lý. Thiên Chúa bị xếp chung với một mớ tổng hợp các loại thần linh. Nơi một số tín hữu công giáo, đức tin cũng bị chao đảo: họ vừa tin Chúa vừa tin bói toán và mê tín dị đoan. Hiện tượng này có thể được gọi bằng một danh từ xem ra nghịch lý: tôn giáo vô thần. Bởi lẽ chúng mang danh tôn giáo mà lại không có đức tin hoặc nếu có thì đó là một đức tin cầu lợi. Thay vì tôn nhận Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên mình, con người hôm nay lại đang sáng tạo ra một “thiên chúa” dị dạng theo tham vọng của họ. Không có Thiên Chúa hiện hữu, cuộc sống này sẽ trở nên vô nghĩa. Đức Bênêđictô đã quả quyết: “Một nền nhân bản loại trừ Thiên Chúa là một nền nhân bản phi nhân” (Thông điệp Bác ái trong Chân lý, số 78).
2- Loại hình cám dỗ thứ hai là tôn thờ của cải vật chất
Trong nền kinh tế thị trường, xã hội bị biến đổi thành một cái chợ mênh mông. Chợ là nơi mà lợi nhuận là mục đích hàng đầu. Đó cũng là nơi người mua kẻ bán chẳng ai tin nhau, dù có là xóm làng thân thích. Khi cuộc sống này đã biến thành chợ, thì mọi sự đều có thể trở nên hàng hoá. Từ đất đai, nhà cửa cho đến tình nghĩa vợ chồng; từ con cá mớ rau cho đến tình thân huyết nhục. Tất cả đều có thể trở nên một món hàng để người ta mua đi bán lại. Tiền bạc vật chất đã gây ra biết xung đột khiến tình huynh đệ tương tàn, vợ chồng xa cách. Người ta vì vật chất mà đánh đổi cả tương lai, chấp nhận những cuộc hôn nhân như một canh bạc đỏ đen may rủi. Cũng vì lợi nhuận mà nhiều người chấp nhận làm những ngành nghề hái ra tiền một cách nhanh chóng, nhưng đó cũng là lý do dẫn họ vào tù. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay: “Sự tôn thờ của cải không những làm cho ta xa lìa tha nhân, mà còn làm cho con người trở nên trống rỗng, bất hạnh, bị lừa đảo, bị ảo tưởng mà không thực hiện được điều của cải hứa hẹn, vì con người đặt vật chất vào chỗ của Thiên Chúa là nguồn mạch duy nhất của cuộc sống” (Trích Sứ điệp Mùa Chay 2011). “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia… Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Đức Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh táo khôn ngoan trong việc sở hữu và sử dụng của cải nhất thời.
3- Loại hình cám dỗ thứ ba là sự hằn thù, chia rẽ
Vào thời điểm mà người ta không tin có hoạt động của ma quỷ, thì chính là lúc Satan đang hoành hành. Satan chính là kẻ nói dối, là tên sát nhân ngay từ ban đầu của lịch sử (x Ga 8,44). Trong vườn địa đàng, con rắn “ỡm ờ” nói với bà Evà: “chẳng chết chóc gì đâu, nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, điều ác” (St 3,4-5). Qua những lời kích động này, ma quỷ gieo vào lòng bà sự nghi ngờ Thiên Chúa, xem ra Thiên Chúa không thương ông bà thực sự. Dường như Ngài là “lực cản” khi ông bà muốn vươn tới hạnh phúc. Lời cám dỗ ngọt ngào của con rắn còn được minh hoạ bằng sắc đẹp và hương vị của trái cấm: “Người đàn bà thấy rằng cây đó ăn thì ngon, trông thật sướng mắt” (St 3, 6). Ngày nào cũng đi dạo trong vườn, mà chỉ hôm nay bà Evà mới thấy trái cây vừa đẹp vừa ngon! Thế rồi bà Evà đã phạm tội vì nghe “những lời có cánh” của con rắn. Tội đã chia rẽ mối thân tình giữa Chúa với ông bà. Còn đâu nữa những buổi đàm đạo với Chúa trong làn gió hiu hiu mỗi khi chiều về?. Satan cũng là kẻ cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa, nhằm mục đích phá huỷ chương trình của Thiên Chúa.

Trong mối tương quan đời thường, lý do dẫn đến chia rẽ rất đa dạng: có thể do vây cánh, họ hàng; có thể vì lợi lộc vật chất. Có trường hợp người ta chia rẽ nhau vì những lý do rất “thánh thiện”, như bất đồng quan điểm trong việc tổ chức hội đoàn, kinh lễ. Vì ích kỷ nên chẳng ai chịu ai, nên chia rẽ sinh ra từ đó.

Một loại hình cám dỗ mang ý đồ chia rẽ cũng xuất hiện qua những phương tiện thông tin. Theo tâm lý thông thường, người ta dễ tin dư luận xấu hơn là dư luận tốt. Những thông tin tiêu cực về một cá nhân lại được loan truyền nhanh hơn những thông tin tích cực. Nhiều tác giả đã không ngần ngại bẻ cong ngòi bút vì mục đích lợi nhuận hoặc vì muốn hạ bệ, tiêu diệt người khác. Không ít người đã cả nể dễ tin và rơi vào cạm bẫy của những cơn cám dỗ này.

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”

Mỗi khi Mùa Chay về, phụng vụ giới thiệu với chúng ta hình ảnh Đức Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa. Cách nói “tên cám dỗ” của Thánh Mátthêu cho thấy ma quỷ mang hình hài một con người, với những lời vừa ngọt ngào, vừa thách thức: “Nếu ông là con Thiên Chúa…”. Lời của tên cám dỗ mang cùng một âm hưởng với lời của con rắn vào thuở ban đầu của lịch sử. Bị cám dỗ về bánh ăn khi đang đói, Đức Giêsu còn bị lôi kéo để thử thách quyền năng Thiên Chúa và sở hữu quyền lực trần gian. Đức Giêsu đã chiến thắng những mưu mô của ma quỷ bằng Lời Hằng Sống và bằng niềm xác tín nơi Chúa Cha.

Khi nào thì người ta mắc tội “sa chước cám dỗ?”. Đối diện với cám dỗ, con người có tự do chấp nhận ngả theo hoặc chống lại. Cám dỗ mới chỉ là những hình ảnh, lời nói, môi trường hoàn cảnh “khơi dậy lòng ham muốn”. “Cám dỗ” trở thành “tội lỗi” khi người ta tự do ưng thuận và thoả hiệp với điều xấu. Đức Giêsu đã đối diện với cám dỗ và Người đã chiến thắng. Chúng ta cũng sẽ chiến thắng cám dỗ, nếu sống đời nội tâm sâu xa và thực thi Lời Chúa.

Đức Giêsu mời gọi chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,38). Người đang hiện diện để nâng đỡ chúng ta trong cuộc chiến cam go của hành trình nên thánh. “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, lời cầu nguyện do Đức Giêsu dạy, sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh và sự bình an.


Gm Giuse Vũ Văn Thiên