Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

Chúa cười !


CHÚA ƠI, XIN HÃY CHỌC CON CƯỜI ĐI!

Chúa ơi, con cứ tưởng tượng rằng Chúa thật trang nghiêm và trịnh trọng.
Nếu một đôi khi Chúa cũng cười, thì con tưởng rằng Chúa cười rất kín đáo.
Con còn biết chắc chắn rằng
nhiều khi Chúa còn khóc nữa,
như Phúc Âm thánh Gioan kể lại.
Nhưng Chúa ơi, con không biết tại sao
khi cầu nguyện với Chúa lần nầy,
con bỗng dưng nhận ra rằng Chúa lại biết cười to vui vẻ.
Và đó là điều con chưa bao giờ tưởng tượng ra được.
***
Con biết Chúa đã cười bằng một nụ cười thực sự vang động,
thành những tiếng dội chạy dài,
thành những làn sóng nối đuôi nhau về phía những ai tiếp nhận,
thành những niềm vui tự hiến trào dâng.
Con biết Chúa đã cười với các môn đệ.
Chúa đẫ cười dòn dã trong tiệc cưới Cana,
nơi đây, Chúa đã hát, Chúa đã vui mừng,và Chúa đã vỗ tay.
***
Con tin rằng Chúa đã cười.
Và con cám ơn Chúa đã ban cho con cái quà tặng tuyệt diệu nầy,
là nụ cười,một quà tặng biến hóa cuộc đời con,
làm cho con dễ trở nên thánh vì ai buồn thì Chúa cho làm con ma quỷ,
còn ai vui vẻ cười đùa, thì Chúa nhận làm con.
Và con cũng biết chắc rằng sự vui cười làm cho con được khỏe mạnh
vì ai không cười thì đau, còn ai cười thì khỏe.
***
Con tin Chúa đã thực sự làm một con người như con,
một con người đích thực như con,
chứ không phải Chúa làm một con người siêu nhân đâu.
Con tin Chúa không phải là một kẻ từ một hành tinh nào đó xa lạ,
đổ bộ xuống trên mặt đất nầy.
Con tin Chúa không chơi trò làm người đâu.
Con tin Chúa không giả đò làm người đâu.
Con tin Chúa không cải dạng làm người đâu.
Con tin Chúa không đóng kịch làm người đâu.
***
Con tin Chúa đã làm người thật như chúng con,
vì thế, Chúa đã cười như một người trong chúng con.
Chúa ơi, vì Chúa đã làm một người thật như chúng con
nên con tin Chúa biết rõ con người thực sự như con,
thế nào cũng có lúc cười, cũng có lúc khóc.
Các Thánh Sử cho con biết Chúa có khóc,
nhưng không thấy các ngài nói cho con biết Chúa có cười.
Đó là một điều đáng tiếc đối với con đó, Chúa ơi!
Nhưng con tin rằng trong cuộc đời của Chúa,
thế nào cũng có ngày,
trong hoàn cảnh này hay trong trường hợp nọ,
Chúa đã cười rất hân hoan vui vẻ vì nụ cười là đặc biệt của con người.
Con đinh ninh rằng Chúa biết cười,
cho dù có những tâm hồn đạo đức nghĩ rằng như vậy
là không đúng đắn đối với Chúa,không thích hợp đối với Chúa.
Nầy Chúa nhé,
con kể ra những trường hợp Chúa cười sau đây.
Chúa đã cười với Đức Mẹ và thánh Giuse
trong gia đình ấm cúng Nadarét.
Chúa đã cười với những trẻ nhỏ ở Nadarét
lúc Chúa nô đùa ngoài sân cỏ với các bạn hữu ngang lứa.
Chúa đã cười với những bạn hữu bà con thân thuộc
khi đi hành hương Giêrusalem.
Chúa đã cười với tất cả những ai Chúa gặp trên đường đi.
Trong tiệc cưới Cana, con biết Chúa đã cười,
Chúa đã uống, và Chúa đã hát nữa.
Con biết Chúa đã cười với các môn đệ
khi cùng họ đi trên những con đường truyền giáo mệt nhọc.
Con biết Chúa đã cười khi ăn uống với các môn đệ trong những bữa cơm thanh đạm nhưng thân mật,khi trò chuyện với họ trong những lúc rãnh rỗi.
Con biết Chúa đã cười với các bà mẹ bồng con đến xin Chúa chúc lành.
Con biết Chúa đã cười với các em nhỏ mà Chúa bồng trên tay.
***
Chúa ơi, Chúa dạy chúng con cười đi,
để chúng con luôn vui sống hạnh phúc bên Chúa và trong Chúa,
vì Chúa đã đến ở với chúng con,
vì Chúa đã làm chúng con trở nên những người em của Chúa.
Xin Chúa cho chúng con biết xếp đặt chương trình đời sống của mình
là: cầu nguyện, yêu mến, hy sinh, và luôn luôn mĩm cười vui vẻ.
***
Chúa ơi, con tin Chúa là nguồn vui
vì Chúa đã nhập thể sau tiếng Xin Vâng đầy hạnh phúc của Mẹ Maria,
Đấng mà sau đó, luôn hát bài Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Chúa đầy vui vẻ.
Con tin Chúa là nguồn vui vì khi vừa giáng sinh,
Chúa đã cho thiên thần loan báo Tin Vui từ trời xuống.
Con tin Chúa là nguồn vui vì khi vừa ra giảng đạo,
Chúa đã vui vẻ đem các môn đệ đi dự tiệc cưới Cana.
Con tin Chúa là nguồn vui vì khi đưa ra chương trình cứu chuộc,
Chúa đã nói đến Tám Mối Phước Thật là tám nguồn vui lớn.
***
Chúa ơi, chúng con biết Chúa yêu thương chúng con.
Chúa có thể yêu thương chúng con từ trên cao, phải không Chúa?
Và Chúa có thể gởi một vị đại sứ đến với chúng con
để nói rằng Chúa yêu chúng con, phải không Chúa?
Nhưng không!
Chúa đã đích thân tìm đến với chúng con.
Chúa đã đến nhập hộ với chúng con.
Chúa đã làm người như chúng con,
giống y hệt như chúng con:
có khi Chúa cũng buồn như chúng con,
có khi Chúa cũng vui như chúng con,
có khi Chúa cũng khóc như chúng con,
có khi Chúa cũng cười như chúng con.
Chúa đã làm người như chúng con
để chúng con trở nên những người em yêu dấu của Chúa.
***
Chúa ơi, chúng con là những người em của Chúa,
em của một Hài Nhi đã cất tiếng khóc chào đời tại hang đá Bêlem,
em của một Hài Nhi đã bú sữa Mẹ hiền, em của một trẻ nhỏ ở Nadarét đã từng học nói, học đọc, học cầu nguyện, học làm nghề thợ mộc;
em của một người đã ra đi giảng thuyết lẫy lừng,
đã đem muôn ơn lành hồn xác đến cho mọi người,
nhưng cuối cùng đã bị người ta vô ơn phản bội,
tra tấn, hành hình và đóng đinh giết chết.
Dù vậy, Chúa vẫn bằng lòng trao dâng cuộc sống của chính Chúa
cho mọi người, cho chúng con, một cách vui vẻ và cao thượng.
Chúng con biết Chúa không trả thù loài người chúng con.
Chúa chỉ biết cười để trừ mà thôi.
***
Chúa ơi, Chúa là Anh chúng con
một Người Anh đã biết khóc, biết cười
vì Chúa đã làm một con người như chúng con.
Chúa muốn chúng con nên giống Chúa trong mọi sự.
Xin cho chúng con đừng nghĩ rằng
phải có một vẻ mặt buồn thảm mới nên giống Chúa.
Trong cuộc đời của Chúa,
Chúa đã dâng lên Chúa Cha
không những nhiều nổi khổ đau và nhiều giọt nước mắt,
nhưng còn dâng lên Chúa Cha nhiều niềm vui và nhiều nụ cười
vì tất cả những cái đó,
chính là đời sống cứu thế của Chúa.
***
Chúa ơi, những người xung quanh chúng con hôm nay sẽ tin vào Chúa hơn
nếu họ thấy bộ mặt chúng con hôm nay tươi hơn,
nếu họ thấy chúng con hôm nay năng cười với họ hơn,
nếu họ thấy chúng con hôm nay năng chào hỏi họ hơn,
nếu họ thấy chúng con hôm nay ăn mặc tươm tất, chỉnh tề,
nói năng nhỏ nhẹ, khiêm tốn, nhã nhặn,
nếu ngày hôm nay, họ thấy chúng con rộng lời khen,
khép lời chê,không chỉ trích ai, không chê bai cái gì
vì họ biết rằng chúng con đang vui sống trong tình yêu của Chúa.
***
Chúa ơi, con thấy ai gặp Chúa xong, đều nhảy nhót vui mừng.
Thánh Gioan Tiền Hô khi được gặp Chúa
liền nhảy nhót vui mừng trong bụng mẹ.
Các mục đồng vui vẻ khi được gặp Chúa
và lúc ra về, họ nhảy nhót tung tăng hát mừng sung sướng.
***
Chúa ơi, chúng con thấy mình thật hạnh phúc biết bao
mỗi lần chúng con được gặp Chúa khi tham dự Thánh Lễ
vì Chúa đem lại bình an cho chúng con,
vì Chúa chúc chúng con vui vẻ ra về bình an.
Vì thế, sau Thánh lễ,
chúng con vui cười với đoàn người vừa dự lễ xong trở về.
Và mỗi lần chúng con tự động vào Nhà Thờ
gặp Chúa đang ngự trong Nhà Tạm.
Chúa là nguồn vui của các thánh trên trời
Chúa là nguồn vui của mọi người lành dưới thế,
nên khi ra khỏi Nhà Thờ,
chúng con cảm thấy thân xác và linh hồn chúng con
lâng lâng vui sướng.
***
Lạy Chúa, xin thứ tha những lời cầu nguyện lung tung nầy của con,
nhưng con muốn thưa với Chúa trong buổi cầu nguyện nầy rằng:
“Xin Chúa hãy chọc con cười đi!”
để đến lượt con,con cũng chọc cười người khác,
con cũng chọc cười những người đang sống với con,
con cũng chọc cười những ai mà con đang tiếp xúc với họ
bởi vì con cũng như mọi người,ai ai cũng rất cần tiếng cười để sống,
ai ai cũng rất cần sự vui vẻ để sống,
để sống đúng Tin Mừng của Chúa,để sống đúng Tin Cười của Chúa. Amen.
Linh mục Nguyễn Hài Đồng
(cầu nguyện theo một số gợi ý của Linh mục Michel Quoist)
Nguon: tonggiaophanhue

Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

Tôi tự học !


Chương 8: Một vài nguyên tắc làm việc
(theo www.maxreading.com)
I. Nguyên tắc thứ nhất là đi từ cái dễ đến cái khó, và phải tin ở sự thành công. Đừng đặt mục đích của mình cao quá, quá cái khả ngăn và phương tiện của mình. Đặt cho mình một mục đích quá cao để rồi không thể đạt được thật là một việc làm chẳng những vô ích lại còn nguy hiểm là khác. Là vì sự thất bại sẽ giết mất lòng tin và làm tê liệt sức cố gắng của mình đi. Goethe thường khuyên các nhà thơ trẻ tuôi nên làm các bài thơ ngắn trước khi viết những thiên anh hùng ca.Đối với một tác phẩm to và phiền phức, hãy bắt đầu viết những phần dễ nhất trước. Nếu con đường quá dài, không sao đi một mạch được thì tốt hơn là chia nó ra từng đoạn và thi hành cho xong từng đoạn một. Người đãng trí cho cái gì cũng dễ, để rồi bị thất vọng, người ươn hèn cho cái gì cũng khó, để rồi không chịu làm gì cả, chỉ có người thông minh mới biết rằng không có gì là dễ dàng cả, nhưng với sự cố gắng và biết phân phối tổ chức, thì rồi việc gì cũng sẽ trở nên dễ dàng tất cả. Dĩ nhiên, đâu phải làm việc mười giờ một ngày mà ta có thể trở thành một đại thi sĩ. Phải có năng khiếu. Nhưng cố gắng mãi thì cũng có khi “ thiên tài chỉ là một sự kiên nhẫn lâu ngày” mà thành.
II. Nguyên tắt thứ hai để làm việc có hiệu quả là phải làm việc đều đều, không nên để gián đoạn. Nhà văn Emile Zola có cho khắc trên phòng ông câu này : Nulla dies sine linca nghĩa là “không một ngày nào mà không viết một hàng”. Thật sự thì mỗi ngày ông viết có cả nghìn hàng chữ, nhưng câu châm ngôn trên đây là một khẩu hiệu rất hay để bắt buộc mình làm việc đúng giờ và đều đều không gián đoạn. Đừng bắt chước việc làm của những kẻ làm việc suốt ngày suốt đêm, để rồi nằm không chổng cẳng ngủ cả hai ba tuần lễ sau. Đây là một nguyên tắc làm việc rất hay cho bất cứ một sự học hỏi hay việc làm nào. Cứ ngày nào cũng học mười lăm phút đồng hồ thôi, nhưng ngày nào như ngày nấy, không bao giờ sai chạy. Đó là một thói quen rất tốt cho những ai muốn làm nên việc lớn và đó cũng là một phương pháp để luyện tập ý chí.
Lương Khải Siêu, trong Âm Băng Thất có viết :
“…Hồ Văn Trung khi ở trong quân, mỗi ngày đều đọc Thông Giám mười tờ.
“Tăng Văn Chính khi tại quân mỗi ngày đều viết nhật kí vài mục, đọc thơ vài bài, đánh cờ một bàn.
“Lý Văn Trung mỗi ngày dậy sớm viết theo Lan Đình một trăm chữ”.
“Suốt đời họ, lấy đó làm thường thường, người thường tình thấy thế, há chẳng cho rằng những sự tiểu tiết ấy không có liên lạc gì đến việc lớn sao ? Nhưng các người ấy đâu hiểu đặng rằng đặt ra các phép tắc có chừng mực và làm theo đó luôn luôn một cách không sai chạy, thật là một sự to tát hạng nhất của phẩm giá con người. Kẻ khéo quan sát đều xem xét mãnh lực tinh thần con người bằng cách ấy”.
Sự làm việc, có ngày ta hăn hái, có buổi ta uể oải, bơ phờ…Nhưng kinh nghiệm cho ta biết rằng, dù có hứng hay không có hứng, phải tự mình cương quyết đặt cho mình một kỷ luật là phải ngồi lại bàn viết, cầm viết viết lên…rồi thì “cái máy”của ta bắt đầu “ấm” lại và “mở máy” chạy như thường. Đừng bao giờ tự nhủ: “Hôm nay thấy trong mình khống muốn làm việc…Vậy hẹn ngày mai!” Đó là cách nuôi dưỡng cái tính lười biếng của ta mà thôi.
Bàn viết của tôi bao giờ cũng sẵn sang giấy mực cả. Viết của tôi luôn luôn đây mực. Thời dụng biểu cùng chương trình làm việc đã ghi rõ chiều hôm qua những gì tôi làm sáng nay…Tất cả đều sẵn sang chờ đợi tôi. Chỉ chờ có tôi đến ngồi là tất cả “guồng máy” bắt đầu làm việc theo ý muốn.
III. Nguyên tắc thứ ba là bất cứ học môn nào phải khởi đầu bằng những yếu tố đầu tiên của môn học ấy. Nghĩa là khởi học lại những căn bản sơ đẳng và đừng bao giờ đốt giai đoạn. Phần nhiều những thất bại về tinh thần đều do sự không biết xây đắp vững chắc cho nền tảng học thức đầu tiên của ta.
Một phần đông chugn1 ta ngày nay thích học nhảy giai đoạn, “học tắt”. họ muốn nghiên cứu đến các khoa học phức tạp về những vấn đề hết sức gay go trong khi họ không hiểu gì ráo về hình học và đại số học sơ đẳng. Có nhiều cô cậu bàn luận đến Einstein mà chưa hiểu nổi Euclide !
IV. Nguyên tắc thứ tư : Biết lựa chọn Biết lựa chọn, là biết lựa chọn những công việc nào hợp với khả năng của mình. Và một khi đã lựa chọn xong thì hãy can đảm thực hiện cho kì được môn mình đã lựa chọn.
Ta chỉ có thể là một nhà tiểu thuyết, hoặc một nhà đại thương gia hay một nhà chính trị, nhưng đừng cao vọng mình sẽ kiêm luôn cả ba, trừ ra những kẻ phi thường.
Tuy nhiên, nếu ta quá chăm chú vào một việc gì thì ta cũng phải thỉnh thoảng biết giải trí bằng cách thay đổi công việc làm. Ignace de Loyola khuyên các tu sĩ dòng Tên đầu tiên đừng bao giờ làm quá hai tiếng đồng hồ vào một công việc.
Ở nhà trường thời dụng biểu không bao giờ cho dạy luôn một môn suốt ba tiếng đồng hồ. Đó là một nguyên tắc làm việc rất hay. Trong đời ta phải có một trung tâm hoạt động duy nhất và ít ra cũng có vài trung tâm hoạt động phụ thuộc.
V. Nguyên tắc thứ năm là phải biết quí thời giờ làm việc của ta và đặt cho nó thành một kỉ luật.
Đối với người làm việc, cần phải có bổn phận là gạt bỏ những kẻ làm mất thời giờ của mình, tức là những kẻ phá quấy ta. Lễ độ, nhẫn nhục đối với họ đều là những lỗi lầm nặng. Phải hết sức gắt gao đối với hạng người này, đón rước họ tức là mình tự phá hoại đời mình đó.
Goethe khuyên ta : “Phải tuyệt đối sửa dạy những kẻ đến quấy rầy ta cho họ mất cái thói đến làm rộn mình mà không cho hay trước. Họ chỉ đến bắt ta phải nghe chuyện của họ…Ai muốn làm việc ích lợi cho đời phải coi chừng đừng để bị kẻ ấy đến quấy rối”. Khi gặp phải trường hợp có kẻ xông vào phòng ông làm việc một cách tràng tráo, thì thi sĩ giữ một thái độ hết sức lạnh lạt làm cho họ phải thất vọng ngay. Goethe chỉ chắp tay sau lưng, không nói một tiếng gì cả. Nếu khách là một người danh giá thì Geothe chỉ làm bộ ho hen và thỉnh thoảng : “Hừ ! Hừ !...”cho qua, thế là câu chuyện đứt ngang. Đối với thư từ, thi sĩ chia ra làm hai loại : thư xin xỏ cầu cạnh thì ông liệng vào sọt giấy, chỉ thư nào giúp ông có được cơ hội để tiến thêm thì ông mới chịu trả lời. Ông lại thường nói : “ Ạ, thanh niên ! Các anh không biết giá trị của thời giờ. Andre Maurois : Un art de vivre ( Plon, 1939). Kể ra cách cư xử ấy có thể xem là tàn nhẫn thật, vì cũng có không biết bao bậc vĩ nhân sẵn sàng trả lời cho tất cả mọi người cần dùng đến mình, trong đó có rất nhiều kẻ đáng thương hại và đáng nâng đỡ. Nhiều người cho rằng các cư xử của Goethe thiếu hẳn lòng nhân, nhưng sự thiếu lòng nhân ấy đã giúp cho ông để lại cho hậu thế những tác phẩm như Faust và Wihelm Meister. Thực sự, kẻ nào tự mình để cho kẻ khác xâm chiếm sẽ bị xâm chiếm, và rốt cuộc rồi cũng sẽ không đểlại được cho đời một công trình gì đáng kể. kẻ nào ham mê làm việc phải biết từ khước tất cả mọi việc nhảm, làm phí thời giờ quí báu của mình, như những cuộc hội họp, trò chuyện, tán hão và không đâu. Goethe lại còn khuyên ta đừng quan tâm đến thời sự, nếu tự mình không có phận sự gì để thay đổi được cuộc diện xã hội. Nếu mỗi sáng đều phí mất một vài giờ đồng hồ để theo dõi tin tức chiến tranh ở ngoài tận xa xăm mút bên kia thế giới, để suy nghĩ vẩn vơ về những hậu quả tai hại của thời cuộc có thể xảy ra trong khi chúng ta chẳng phải là một nhà chính khách, một vị tướng lãnh hay một kí giả hoặc không phải là gì gì cả… thì liệu chúng ta có làm việc gì được cho xứ sở không, lại còn làm mất thời giờ quí báu một cách rất vô ích trong một cuộc đời sống ngắn ngủi và chỉ có sống một lần thôi.
Kỉ luật “quí thời giờ” này bắt ta cũng đừng để cho tình cảm không đâu làm phí tổn thời giờ khó kiếm của ta trong khi ta đang làm một công việc quan trọng. Cái ý nghĩa cao cả về đời sống của một bậc nam nhi không phải ở trong những mối tình cảm cỏn con, chỉ làm tổn thất thời giờ vô ích. Người có quyết tâm làm nên đại nghiệp cần phải biết hi sinh. Có nhiều bạn trai đây nhựa sống, đây thiên chí, đầy khả năng làm việc và học hỏi lại bỏ mất thời gian quí báu của mình để bận đến những mối tình “đầu lưỡi” của các bạn gái lãng mạn. Người đàn bà là một “cạm bẩy”, kẻ nào sa vào đều hỏng cả cuộc đời mình. Có bao kẻ học thi lại vì những tình cảm không đâu, đành phải làm hại cả một đời mình vì một vài cô nhí nhảnh ! Phải dám hy sinh tình cảm mình cho những công trình quan trọng hơn.
Đọc tiểu sử các bậc vĩ nhân anh hùng ta thấy rõ rệt điều này : họ không bao giờ để ái tình họ trên sự nghiệp. Những bặc nam nhi mà đời họ chỉ biết nuông chiều theo tình cảm, phí thời giờ để làm vui lòng người đàn bà, suốt đời sẽ không làm nên đại nghiệp gì cả và có khi vì thế mà tan nát cả tương lai mình là khác. Bởi vậy, người đàn bà mà khôn, sẽ làm nên sự nghiệp cho chồng, giúp cho chồng đạt thành sở nguyện bằng sự hi sinh, không đời hỏi nơi người đàn ông phải vỉ mình mà làm mất những thời giờ quí báu trong khi làm việc. Bà vợ của Edison là gương của một người đàn bà của một bậc vĩ nhân. Bà kính cẩn tôn trọng những giờ phút làm việc của chồng như một cái gì thiêng liệng bất khả xâm phạm, và suốt đời không bao giờ đòi hỏi chồng phải chiều chuộng mình mà làm mất thời giờ quí báu của chồng.
VI.Nguyên tắc thứ sáu là biết dùng thời giờ làm việc và tiết kiệm từng phút một.
Thời gian đối với một kẻ lười biếng thì dài lê thê bất tạn, họ tìm cách giết thời giờ mà giết không sao cho hết. Trái lại, đối với những kẻ ham làm việc và học hỏi thì ngày giờ rất eo hẹp vô cùng. Một đời sống như của Pascal hay Spinoza tuy rất ngắn ngủi nhưng thật là phong phú lạ ; trái lại có những cuộc đời dài lê thê mà vô vị và khô khan nhu bãi sa mạc.
Thời gian làm việc rất là ngắn. Nếu kể 60 năm là hạn, mà phải trừ lại tuổi của lúc ấu thơ, những giấc ngủ thì chỉ còn lại bao nhiêu năm ? Ba mươi năm là cùng. Thế mà nếu lại trừ bớt trong 30 năm ấy những thời giờ tắm rửa, ăn uống, tiêu hóa, đau ốm, mệt mõi, những cuộc viếng thăm, xã giao, tán nhảm, thư từ, nghỉ hè…cùng những thời giờ bị kẻ không đâu đến quấy rối…thì còn lại bao nhiêu năm để làm việc bằng trí ? Mười hoặc mười hai năm là nhiều nhất ! Kinh khủng chưa ?
Những kẻ bị nghiề nghiệp ràng buộc, đầu tắt mặt tối thì dĩ nhiên không sao còn có thời giờ rãnh rỗi. Đối với họ, đời sống trôi chảy một cách lạnh lùng tẻ và không gì gọi là có tư tưởng cả! Nhưng giả sử bạn là một sinh viên, bạn là người có phúc hơn nhiều và được nhiều ưu đãi vì bạn được có thời giờ tự do để làm việc và học hỏi, bản thử tính lại ngày giờ làm việc thật của bạn được là bao ? Nhất là trong những giờ bạn làm việc, thời giờ lo tìm tự điển, chép bài, nói chuyện khào, đọc sách nhảm hay nhật báo…thời giờ làm việc của các bạn thực sự còn có là bao ? Giỏi lắm là hai mươi phút trong một giờ là cùng. Nhưng hai mươi phút ấy cần phải để mà suy nghĩ, nghiền ngẫm, đem tất cả nghị lực vào việc làm không xao lãng.
Trong thời gian hai mươi phút làm việc của ta trong một giờ ấy, ta có để mất nó nữa không ? Thiếu gì cơ hội bất thường đến làm cho ta bị xao lãng mà phải bị ngưng công việc. Một con ruồi rớt trong bình mực cuãng là một cơ hội ta bị xao lãng. Con mèo kêu trên mái nhà…Cánh cửa bị gió đập mạnh…Một chiếc xe hơi đậu lại trước nhà mà máy vẫn chạy…đều cũng là cơ hội để ta bị xao lãng. Trong khi đi tìm một chữ nào ở tự điển lại cũng có khi bị quyến rũ mà liếc mắt mấy chữ kế bên, hoặc nếu là một quyển tự điển có hình nhiều làm sao tránh khỏi không xao lãng mà nhìn sang các hình bên cạnh…Rồi đến lượt có một tờ báo đến nhà, mình cũng ngưng đi một chút để xem qua các tít…Có gì đâu…chỉ vài phút thôi là xong ! Đó là chưa nói đến những mơ mộng phiêu lưu theo sự khêu gợi của vài danh từ quen quen.
Littre lúc ban mai, khi ông chờ người làm phòng làm xong công việc dọn dẹp, ông viết bài tự cho bộ tự điển khổng lồ của ông. Có những phút đồng hồ kể là bỏ mà người biết tiết kiệm thời giờ lại dùng nó để làm được nhiều công trình to lớn. Ông d’Aguesseau thay vì rầy rà, bất bình bà vợ có tính chậm chạp bắt ông luôn luôn chờ đợi lúc giờ ăn, ông lợi dụng những phút đợi chờ ấy mà viết một quyển sách. Ngày kia, ông đưa cho bà quyển sách ấy và nói: “Đây là những món ăn “đầu bữa” của tôi đây.
VII.Nguyên tắc thứ bảy là hễ làm việc gì thì hãy làm cho hoàn tất, đừng phải trở lại một lần thứ hai. Đó là một thói quen rất tốt cho tất cả mọi công việc.
Chesterfield trong một bức thư gởi cho con có nói : “không có gì dễ bằng, miễn là chỉ nên làm một việc thôi và đừng bao giờ để qua ngày mai việc gì ta có thể làm ngay bây giờ.”
Việc gì cũng vậy, hãy từ từ mà làm, đừng làm hối hả, vụt chạt, làm một cách tắc trách mà phải làm một cách đàng hoàng dứt khoát với tất cả tâm hồn. Phải tập quen cái tính này : không bao giờ chịu làm một việc gì mà làm cho có, miễn cưỡng, cẩu thả và phải làm lại một lần thứ hai.
Khổng Tử có nói: Học cho rộng, hỏi cho kĩ, phân biệt sáng rõ, làm cho hết sức. Có điều không học, nhưng đã học điều gì không hay, không thôi. Có điều không hỏi, nhưng đã hỏi điều gì mà không biết, không thôi. Có điều không phân biện, nhưng đã phân biện điều gì mà không minh bạch, không thôi. Có điều không nghĩ, nhưng đã nghĩ điều gì mà không nghĩ đến nơi, không thôi. Có điều không làm, nhưng đã làm điều gì mà chưa tận lực, không thôi. Người ta dụng công một, ta dụng công một mà không được thì phải dụng công gấp trăm, người ta dụng công mười, ta dũng công gấp mười mà không thành thì phải dụng công gấp nghìn để đến kì được mới thôi. Nếu quả theo được đạo ấy thì tuy ngu rồi cũng thành sáng, yếu rồi cũng thành ra mạnh. ( Trung Dung)
VIII.Nguyên tắc thứ tám là muốn làm việc cho nó hiệu quả phải có một sức khỏe dồi dào.
Một thân thể tráng kiện là điều kiện cốt yếu cho một tinh thần sáng suốt. Bệnh hoạn là một trở ngại to tát cho sự làm việc bằng trí óc.
Tôi có nhiều bạn văn, ngày nay đã ra người thiên cổ vì làm việc không nguyên tắc, không biết giữ gìn sức khỏe. Họ làm việc ban đêm với chè tàu và cà phê, thuốc là…Sống trong những căn phòng tồi tàn, không đủ không khí, vì vậy, bệnh tật dấy lên và cướp đi mạng sống họ trong lúc tuổi mới vừa ba mươi, tương lai đang đầy hứa hẹn…

Có người bải : “Ba điều kiện để được thành công là : “ Tài hoa, sức khỏe và may mắn!”. Lời nói ấy gẫm cũng chí lí. Epicure có nói : “Một thân thể không đau, một tinh thần không loạn, đó là chân hạnh phúc của con người”. Thật vậy, có được một tinh thần không loạn cũng nhờ một phần nào nơi một thân thể không đau. ảnh hưởng của sức khỏe đối với tính tình và tư tưởng của ta đâu phải là thường !
Như vậy, điều kiện đầu tiên của sự thành công là có được một thân thể tráng kiện. Và muốn được như thế, dĩ nhiên là phải có đủ những điều kiện sau đây : ăn uống đầy đủ, bổ dưỡng, nhẹ nhàng, vận động thân thể vừa vừa, đừng nặng nhọc lắm, thường sống ngoài trời có gió, có nắng và nhất là có được những giấc ngủ ngon lành. Sự vui vẻ cũng là một liều thuốc bổ nhất.
Giấc ngủ là quan trọng hơn hết. Nhưng đừng ngủ thái quá, nhất là “ngủ nướng”. Ngủ nhiều quá làm cho máu chạy chậm lại, làm cho cảm giác nhụt lần và óc thông minh thêm nặng nề uể oải. Nhưng, ngủ vừa đủ để lấy lại sức khỏe là cần nhất. Về số giờ phải ngủ thì không sao định được, nó tùy mùa, tùy công việc làm nặng nhẹ, tùy sự mệt mõi nhiều ít… Chính mỗi người tùy nhu cầu mà tự định đoạt lấy.
Nhưng nếu mình cảm thấy mất ngủ, thì phải ngưng lập tức các công việc làm bằng trí óc, và hãy đi ra ngoài chỗ thoáng khí. Sự mất ngủ, nếu không phải do sự dùng chất kích thích thần kinh như rượu, trà hay cà phê cùng thuốc lá hoặc vì ăn quá no, thì đó là triệu chứng của sự làm việc quá độ. Khi nào ngủ lại được thì mới nên bắt đầu làm việc lại. Những lo âu, cũng là nguồn kích động làm cho ta mất ngủ.
Ngoài trời rộng, đi bách bộ, giúp cho máu chạy mạnh, rất có lợi cho sự trầm tư mặc tưởng. Nhà nhạc sĩ đại tài Beethoven thường thích lưu động ngoài đồng ruộng. Trong khi tôi đi thì đầu óc tôi làm việc mãnh liệt. “Stuart Mill thuật rằng phần lớn quyển sách Logique ông đã được nghiền ngẫm trong những lúc đi làm việc mà phải đi bách bộ đến sở.
Làm việc ban đêm đừng bao giờ quá khuya, sau 10 giờ đêm là phải ngưng làm việc ngay. Không có gì nguy hại bằng cách tiêu pha sức khỏe mình trong các tiệm nước hay các rạp xine. Những giờ nghỉ, cần tìm cách tiêu khiển ngoài trời tốt hơn, nhưng cũng đừng quá phung phí sức mình trong các cuộc thể thao quá nhọc mệt.

Giá trị của một Thánh Lễ Mi-sa


Giá Trị Của Một Thánh Lễ Misa

Cha Stanislaus là Linh Mục Hội Dòng Thánh Tâm Chúa. Ngài có một người anh làm Linh Mục Dòng Tên. Thân phụ của hai anh em này là Đại Úy kiểm lâm trong một thị trấn nhỏ của Luxemburg. Ông rất sùng đạo, vẫn đi Lễ và rước Lễ hàng ngày. Khi nói chuyện với cha Stanislaus về thời thơ ấu của ngài, tôi nói: “Cha thật có phúc được nuôi dưỡng trong một gia đình Công Giáo đạo đức, đã có công cống hiến cho đời hai vị Linh Mục.”
Ngài đáp: “Vâng, đúng thế, nhưng không phải mọi sự đều trôi chảy như vậy từ đầu cả đâu ! Khi chúng tôi còn bé, cha tôi đã bỏ đạo, và mặc dù mẹ tôi còn đọc kinh cầu nguyện nhưng trong gia đình không một ai đi Lễ, kể cả Chúa Nhật, thể theo ý muốn của cha tôi”

Tôi nói: “Trời đất ơi ! Cha làm tôi ngỡ ngàng quá chừng. Chuyện hiếm có như vậy mà có thể xảy Ra thật ư ? Vậy chứ ơn gọi làm Linh Mục từ đâu mà ra ?”

Ngài nói: “Một hôm, sau khi cha tôi đến thăm một tiệm bán thịt gần nhà thì ông đã đột nhiên thay đổi ý kiến. Câu chuyện xảy ra chiều hôm đó tại nhà hàng bán thịt này là nguyên nhân hoán cải của cha tôi.” Tôi đáp: “Một tiệm bán thịt ! Một ơn hoán cải trong một tiệm bán thịt ! Chuyện gì đã xảy ra vậy ?”

Cha Stanislaus nói: “Ồ, đầu đuôi câu chuyện xảy ra như thế này. Cha tôi và ông chủ tiệm là một đôi bạn thân từ hồi còn bé. Khi hai người đang say sưa chuyện vãn như mọi lần thì một bà già lọm khọm bước vào.”

Ông chủ tiệm ngưng nói chuyện và bước tới hỏi xem bà cụ cần gì. Bà nói bà đến xin ông một chút thịt nhưng bà không có tiền. Cha tôi chú ý lắng nghe câu chuyện bi hài giữa bà cụ và ông chủ tiệm. Ông chủ tiệm nói: “Bà cần một chút thịt ư ? Nhưng tôi cần biết bà có thể trả cho tôi bao nhiêu tiền cái đã."
Bà cụ đáp: “Rất tiếc là tôi không có đồng xu nào cả… nhưng tôi sắp đi Lễ đây, và nếu ông muốn thì tôi sẽ dâng Thánh Lễ theo ý chỉ của ông.”

Ông chủ tiệm và cha tôi đều là người tốt bụng ( nhưng cả hai đều coi thường tôn giáo, nhất là Thánh Lễ Misa và Giáo Hội Công Giáo ) cho nên cả hai đều muốn đùa giỡn chút chơi với câu trả lời của bà già lẩm cẩm.

Ông chủ tiệm bèn nói: “Được rồi ! Đây là một miếng giấy nhá” và ông viết mấy chữ ‘Tôi đi xem lễ và dâng lễ theo ý chỉ của ông…’ rồi đưa cho bà cụ ông nói: “Cụ đi xem lễ đi và cầu nguyện theo ý chỉ của tôi nhá. Khi về, bà sẽ đưa cho tôi miếng giấy này và chúng ta sẽ xem một Thánh Lễ đáng giá bao nhiêu ký thịt.”

Bà cụ tươi cười ra đi cầm theo tờ giấy. Bà biết Chúa nhân lành sẽ giúp đỡ bà. Khoảng một giờ sau, bà trở lại tiệm bán thịt. Khi nhìn thấy bà ông chủ tiệm liền nói: “Đâu, tờ giấy đâu, bà đưa cho tôi đi và chúng ta sẽ xem Thánh Lễ của bà dâng cho tôi đáng giá bao nhiêu tiền nhá !”

Bà đưa tờ giấy cho ông, ông đặt tờ giấy lên bàn cân phía tay mặt. Trên bàn cân phía trái ông để một khúc xương nhỏ, nhưng mảnh giấy có vẻ nặng hơn miếng xương của ông. Vậy là ông lấy miếng xương ra và đặt vào bàn cân bên trái một miếng thịt nhỏ. Nhưng bàn cân bên mặt vẫn nặng hơn. Ông bèn lấy một miếng thịt lớn hơn đặt trên bàn cân trái, tuy nhiên bàn cân bên mặt vẫn không nhúc nhích. Đến lúc này thì cả hai ông đều cảm thấy xấu hổ vì sự nhạo báng của mình, nhưng ông chủ tiệm vẫn còn muốn tiếp tục trò chơi của ông. Ông bèn đặt một tảng thịt thật nặng lên bàn cân trái, nhưng bàn cân mặt vẫn đứng yên bất động. Ông nghĩ chắc cái cân bị trục trặc kỹ thuật thế nào đó chứ không lẽ… Ông lấy miếng giấy ra khỏi bàn cân bên mặt xem sao, tức thì bàn cân bên trái xẹp ngay xuống dưới sức nặng của tảng thịt lớn.

Ông chủ liền lấy cả hai thứ ra khỏi bàn cân, để kiểm soát kỹ lại xem cân có bị trục trặc gì không… rồi ông cân một vài thứ khác như ông vẫn làm từ trước tới nay, thì thấy cái cân hoàn hảo và rất chính xác. Sau cùng ông chủ đảo ngược hai thứ trên bàn cân: ông đặt tờ giấy lên phía bên trái và tảng thịt lên phía bên mặt. Tuy nhiên tờ giấy vẫn nặng ký hơn tảng thịt rất nhiều.

Bực mình, ông nhẹ nhàng nói với bà cụ: “Bà cụ ơi, bây giờ bà muốn gì nào… tôi có phải đưa cho cụ cả một cái đùi cừu chăng ?”

Bỗng chốc, cả ông hàng thịt lẫn viên đại úy đều nhận ra rằng Thánh Lễ Misa thật là vô giá. Ngay lúc đó, cả hai đều được ơn soi sáng để hiểu biết rằng không thể tính được một Thánh Lễ đáng giá bao nhiêu tiền.

Ông hàng thịt đã hoàn toàn hoán cải vì chuyện vừa xảy ra, và ông hứa sẽ cung cấp thịt hàng ngày miễn phí cho bà cụ. Ông giữ lời hứa. Tiếng đồn lan ra các vùng lân cận, dân nghèo khác cũng đến lãnh phần thịt hàng ngày của họ. Rồi lòng quảng đại của ông được các vùng khác biết đến. Thiên hạ cũng nói rằng phẩm chất thịt của tiệm ông rất ngon nên số doanh thu của ông tăng nhanh hơn bao giờ hết.

Cha tôi, tức ông đại úy, ngay hôm sau đã đi Nhà Thờ xem Lễ, và ông được ban cho một thánh sủng khác. Ông được ơn nhận biết Chúa Giêsu đích thực hiện diện trong Mầu Nhiệm Thánh Thể, và ngày hôm sau nữa, cả nhà chúng tôi kéo nhau đi xem Lễ hàng ngày. Trong nhà chúng tôi không khí đã đổi khác không như trước nữa.

Hạnh phúc chúng tôi được ban cho thật là vĩ đại, khôn tả xiết, và chúng tôi bắt đầu kính mến Chúa và thương yêu nhau hơn bao giờ hết. Gia đình chúng tôi bỗng trở nên một Tiểu Thiên Đàng, và tôi tin chắc rằng cha mẹ tôi đang chờ chúng tôi đến gặp các ngài trên đó!

Trích bài viết của Sr. MARY VERONICA MURPHY
Bản dịch của Louis LÊ XUÂN MAI

Chuyện hay - sống đẹp về Tình yêu !


Hai nửa hy sinh

Cô vốn là một người con gái xinh đẹp. “Vệ tinh” xung quanh cô nhiều không kể xiết, nhưng cô bỏ ngoài tai tất cả để chọn anh - một công nhân làm việc ở nhà máy, thu nhập còn không đủ cho 3 bữa ăn hàng ngày. Cô chấp nhận từ bỏ cả gia đình, thậm chí là công việc đầy tương lai của mình để cưới anh.

Sau khi kết hôn, anh và cô mượn được nhà kho của một người bạn, họ sắp xếp lại thành một tổ ấm giản dị. Mùa đông đến, căn nhà kho trống trải hút gió lại càng trở nên lạnh giá. Khi ấy chưa đủ tiền mua chăn, cô thường bị giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì lạnh. Những lúc đó, anh chỉ biết ôm chặt cô vào lòng, dùng hơi ấm của cơ thể sưởi ấm cho cô.

Một ngày cô trở về nhà với vẻ mặt thất thần nhợt nhạt, anh lo lắng hỏi cô có phải bị bệnh rồi không? Cô chỉ mỉm cười nói: “Em hơi mệt thôi!” rồi hân hoan rút từ trong túi ra một tờ bạc nhét vào tay anh: “Chúng mình có tiền rồi anh ạ, mình đi mua một chiếc chăn thật ấm để đắp nhé.” Anh sững người ngạc nhiên nhìn tờ tiền trong tay cô, giọng run run: “Làm sao em lại có nhiều tiền vậy?” Cô vui vẻ kể lại cho anh tiền là do cô kiếm được khi đi phát tờ rơi. Cô phải đứng từ sáng đến tối mới được trả ngần ấy tiền. Nói rồi cô vội vàng kéo anh ra khỏi nhà, không cho anh hỏi thêm điều gì nữa. Họ mua môt cái chăn vừa tầm tiền. Từ đó, giữa đêm cô không còn bị giật mình thức giấc nữa.

Vài năm sau, anh tìm được công việc tốt hơn, rồi kiếm được nhiều tiền, tự mở công ty. Không bao lâu anh đã xây cho cô một ngôi nhà khang trang, mua ô tô cùng rất nhiều đồ dùng đắt tiền khác. Anh nói muốn dành cho cô một cuộc sống ấm no đầy đủ bù đắp lại những tháng ngày khó khăn vất vả trước đây. Cuộc sống bỗng vụt thay đổi khiến cô có phần bàng hoàng chưa kịp thích nghi với điều kiện mới.

Ngày chuyển nhà, anh bảo những đồ đạc cũ trong căn nhà kho của họ trước đây anh đều muốn vứt đi không giữ lại bất cứ cái gì. Nhưng cô khăng khăng nói muốn giữ lại cái chăn để đắp. Và rồi một thời gian dài nữa họ vẫn dùng cái chăn cũ ấy, giờ đây nó đã trở nên xù xì cũ kĩ, còn bị rách khá nhiều chỗ. Anh không ngừng phàn nàn với cô: “Thôi bỏ cái chăn cũ này đi em, mình có thể mua một cái chăn mới ấm áp và tốt hơn rất nhiều. Em xem cả nhà mình toàn những đồ đắt tiền, nhìn cái chăn cũ này trong nhà trông thật chướng mắt”. Nhưng cô vẫn cố chấp nhất quyết giữ lại cái chăn cũ ấy, vì chỉ khi đắp nó cô mới cảm thấy ấm áp và được che chở.

Một hôm, anh về nhà mang theo một cái chăn mới và nhất quyết bảo cô bỏ cái chăn cũ đi. Lần này dù không nỡ nhưng cô vẫn nghe theo lời anh. Từ đó, hàng đêm cô ngủ không còn ngon giấc nữa, trong lòng cô lúc nào cũng cảm thấy thấp thỏm lo lắng khiến cô lại không ngừng giật mình giữa đêm. Và mỗi lần tỉnh dậy như thế, hai mắt cô lại đầm đìa nước. Anh vốn không biết rằng để mua được cái chăn đó cô đã phải đi bán máu lấy tiền chứ không phải đi phát tờ rơi như cô nói với anh. Lần đầu tiên bán máu, biết bao đau đớn, cũng chỉ vì muốn có cái chăn này. Vậy mà anh lại nỡ vất bỏ nó. Cô dần cảm thấy anh không còn yêu cô như xưa nữa.

Một ngày anh có việc gấp phải ra ngoài, quên mang theo máy tính xách tay quen thuộc. Trên màn hình của anh vẫn hiện lên trang blog anh viết hàng ngày. Và cô bất chợt đọc được dòng chữ anh hình như mới viết không lâu.

“Ngày hôm ấy em từ đâu về khuôn mặt tái xanh nhợt nhạt khiến cho tôi lo lắng vô cùng. Rồi em nói em đi phát tờ rơi để mua chăn cho hai đứa. Tối hôm đó chúng tôi nằm ngủ ấm áp trong chiếc chăn mới, thấy em nằm cuộn tròn trong lòng tôi say trong giấc ngủ, tôi thương em biết bao. Đã bao đêm rồi em không được ngủ ngon đến vậy. Và rồi tình cờ tôi nhìn thấy trên tay em có một vết sưng nhỏ, dường như bị kim tiêm đâm vậy. Tôi bỗng hiểu ra tất cả. Hóa ra em nói dối tôi em đi phát tờ rơi, thực ra em đã đi bán máu để có tiền mua chăn, chỉ vì một cái chăn mà em đã phải khổ sở đau đớn đến vậy. Đêm đó tôi đã khóc vì thương em và cũng thầm hứa sẽ cố gắng làm việc, phấn đấu trở thành một người thành đạt, để có thể bù đắp lại những ngày tháng khốn khó này cho em. Và giờ đây tôi đã thực hiện được lời thề đó. Hôm qua tôi quyết định đến trạm hiến máu, tôi chỉ muốn cảm nhận một chút nỗi đau em từng trải qua. Khi chiếc kim tiêm đâm vào mạch máu, một cảm giác nhói buốt lan dọc khắp cơ thể. Nhưng tôi không thấy đau, ngược lại, rất hạnh phúc. Tôi lấy tiền bán máu và đi mua chiếc chăn mới này. Tôi muốn nó là món quà bất ngờ dành cho em...”

Nước mắt cô đã ướt đẫm tự độ nào. Hóa ra tình yêu của anh dành cho cô vẫn sâu đậm và lớn lao đến vậy. Mùa đông năm nay anh đã đổi máu của mình tặng cho cô chiếc chăn ấm, có lẽ đó cũng sẽ là chiếc chăn ấm áp nhất cô có trong đời...
(www.lifestories24h.blogspot.com)

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Mục Vụ Sống đạo !


Giáo Xứ Chúa Ki-tô Vua, P. Lộc Phát 2012 – by bapgioan sưu tầm
Mục Vụ> Sống Đạo (www.liengiaositusi.com)


SỰ KHÁC BIỆT GIỮA BÍ TÍCH, Á BÍ TÍCH và ÂN XÁ

Hỏi: Xin cha giải thích lại sự khác nhau giữa bí tích, á bí tích và ân xá.?

Trả lời:

I. Bí tích (sacrament) là gì?
Trước hết, nói đến bí tích ( sacramentum) thì phải nói đến Chúa Kitô là Mầu Nhiệm( Mysterium) cứu độ độc nhất cho nhân loại, vì ngoài Chúa ra, không có Mầu Nhiệm nào khác mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho con người. Bí tích là những dấu chỉ hữu hình (visible signs) mà Chúa Thánh Thần dùng để ban ơn cứu độ của Chúa Kitô cho chúng ta trong Giáo Hội. Đây là những phương tiện cứu rỗi hữu hiệu mà chính Chúa Kitô đã thiết lập để ban phát ơn thánh hóa và cứu độ của Người cho chúng ta cho đến ngày mãn thời gian.. (SGLGHCG số 774). Có bảy bí tích như chúng ta quen thuộc từ xưa đến nay.
Điều kiện quan trọng nhất để lãnh cách hiêu quả bất cứ bí tích nào, là phải có đức tin, tức là vững chắc tin về hiệu quả thiêng liêng thật sự của bí tích muốn lãnh nhận hợp pháp trong Giáo Hội. Thí dụ, khi lãnh bí tích Thánh Thể, tức là rước Mình Máu Chúa Kitô, thì phải tin chắc rằng có Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh và rượu nho; nếu không, việc rước Chúa sẽ là vô ích và người rước Mình Máu Chúa cũng chỉ thấy mình ăn chút bánh và uống tí rượu nho mà không cảm nghiệm được điều gì có tác dụng đánh động tâm hồn cả. Cũng vậy, khi đi xưng tội, nếu hối nhân không tin có Chúa Giêsu hiện diện và tha tội cho mình qua tác vụ của một linh mục, dù là bất xứng dưới mắt người đời, thì việc xưng tội cũng sẽ không mang lại lợi ích nào cho hối nhân.Nói rõ hơn, khi ta xưng tội thì ta xưng tội với Chúa qua vị linh mục và chính Chúa Kitô sẽ tha tội cho ta qua công cụ loài người là linh mục hay giám mục, là các thừa tác viên chính thức của bí tích Hòa giải.
Chính vì thiếu điều kiện đức tin này, nên có người đã nói: tôi được rửa tội rồi mà có thấy mình được “tái sinh” ở chỗ nào đâu, tôi vẫn thấy tôi nguyên vẹn như cũ! hoặc “sau mỗi mùa chay và tuần thánh, tôi đâu có thấy mình chết đi và được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh như Giáo Hội nói đâu !”
Nói thế là vì không có đức tin, nên không tin có sự đổi mới trong tâm hồn sau khi nhận lãnh bí tích rửa tội, nhờ đó tội nguyên tổ và mọi tội cá nhân được tẩy sạch và đươc tái sinh trong sự sống mới, và “mặc lấy Chúa Ktô” như Thánh Phaolô đã dạy.(x. Gl 3:27). Có đức tin thì mới tin có Chúa là Đấng tạo dựng mọi loài mọi vật, dù mắt ta không hề trông thấy Chúa, tai không hề nghe tiếng Ngài nhưng lòng vẫn tin chắc có Chúa như Giáo Hội dạy.
Giáo dân được khuyến cáo năng lãnh nhận các bí tích hoà giải và Thánh Thể để được thánh hoá, được giao hòa lại với Chúa, với Giáo Hội và với tha nhân sau khi đã lỡ sa phạm tội vì yếu đuối con người, và nhất là vì bị ma quỷ cám dỗ với gương xấu của thế gian.Bí tích Thánh Thể cũng ban sức mạnh thiêng liêng để giúp ta nên thánh, sống đức tin, đức cậy và đức mến cách nồng nàn trong trần thế này, sau khi đã được tái sinh qua Phép Rửa và được thêm sức mạnh, trí hiểu và khôn ngoan của Chúa Thánh Thần qua bí tích Thêm sức.Nhưng cần nhớ là phải có đức tin khi lãnh nhận bất cứ bí tích nào, đặc biệt là hai bí tích hòa giải và Thánh Thể, để nhờ hiệu quả của bí tích có thể sinh hoa kết trái trong tâm hồn người lãnh nhận.
II. Á Bí Tích (Sacramentals)
Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo ( SGLGHCG) định nghĩa Á Bí tích " là những dấu hiệu linh thánh, phần nào giống như các Bí tích, nhờ đó các hiệu quả thiêng liêng được thông ban nhờ lời cầu nguyện của Giáo Hội. Nhờ các Á Bí tích này, chúng ta được chuẩn bị để lãnh nhận hiệu quả của chính các bí tích." ( SGLGHCG số 1667). Nói rõ hơn, Á Bí Tích là những dấu chỉ hay phương tiện có liên hệ phần nào đến các bí tích hay thực tại thiêng liêng, đã được Giáo Hội thiết lập để xin ơn Chúa cho người hoặc để thánh hoá đồ vật dùng trong phụng vụ thánh như: Thánh giá, nước phép, nến, dầu thánh ( Chrism), áo Đức Bà (scapular) tràng hạt, Kinh Thánh (Bible), sách kinh, sách lễ, phép lành,(kể cả phép lành của Đức Thánh Cha), hài cốt các thánh, bình đựng Mình Máu Chúa (Ciborium, chalice, paten) khăn thánh (corporal, purificator), bàn thờ, khăn bàn thờ, áo lễ (chasubles, stoles, Albs) tro dùng trong Thứ tư Lễ Tro ( Ash Wednesday) và lá làm phép.( Chúa Nhật Lễ Lá)... tất cả đều là các Á Bí Tích mà người tín hữu phải tôn trọng với lòng mộ mến vì giá trị thiêng liêng của các Á bí tích nói này.
III-ÂnXá(Indulgences)
Là ân huệ thiêng liêng mà Giáo Hội, với quyền cầm buộc và tháo gỡ, lấy từ kho tàng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và công nghiệp của Đức Mẹ và các thánh, để tha hình phạt hữu hạn (temporal punishment) cho người còn sống hay các linh hồn đang còn ở luyện tội . Hình phạt này là hậu quả của tội nặng, nhẹ đã được tha qua bí tích hòa giải mà hối nhân phải làm sau khi xưng tội. (việc đền tội = penance). Nếu hối nhân không làm đủ việc đền tội này khi còn sống thì phải được thanh luyện sau khi chết ở nơi gọi là Luyện tội. Do đó, ân xá mà Giáo Hội ban chỉ có mục đích tha hình phạt hữu hạn này chứ không tha các tội nặng, nhẹ như mục đích và công dụng của bí tích hoà giải. Nghĩa là chỉ qua bí tích hoà giải, chúng ta mới được tha các tội nặng nhẹ đã phạm vì yếu đuối con người, và nhất là vì còn tin tưởng nơi lòng xót thương tha thứ của Chúa. Nếu không còn tin tưởng gì nơi lòng thương xót của Chúa để chậy đến xin Người tha thứ qua bí tích hòa giải, thì lại mắc tội phạm đến Chúa Thánh Thần, là tội hoàn toàn chối bỏ Thiên Chúa và tình yêu của Người. Như vậy, bao lâu còn cứng lòng trong sự từ khước tình thương và ơn tha thứ của Chúa thì bấy lâu ở trong tội không thể tha thứ được như Chúa Giêsu đã nói rõ : " Bất cứ ai nói phạm đến Con Người , thì còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần thì sẽ chẳng được tha." Lc 12 :10).Do đó, muốn được tha thứ, người ta phải có lòng tin nơi tình thương xót vô biên của Chúa và thành tâm muốn xin Người tha thứ mọi tội lỗi đã phạm vì yếu đuối người.
Xin nói lại một lần nữa : Ân xá không có mục đích tha bất cứ tội nào mà chỉ giúp tha hay tẩy xóa những hình phạt hữu hạn ( temporal punishments) là hậu quả của tội đã được tha còn để lại trong tâm hồn hối nhân. Ân xá có thể ban cho người còn sống và cho các linh hồn trong luyện tội để xin tha hình phạt hữu hạn nói trên. Ân xá có thể là toàn phần ( plenary Indulgences) hay bán phần
( Partial indulgences) để tha hết các hình phạt hữu hạn hay tha một phần hình phạt này. Giáo Hội ban phát ân xá trong những dịp trọng đại như Năm Thánh ( Jubilee Year) Kỷ niêm đăng quang của Đức Thánh Cha, kỷ niệm ngày thành lập Giáo Phận hay Dòng Tu, tham dự lễ mở tay của tân linh mục, viếng nghĩa trang trong tháng cầu cho các linh hồn, v.v. Người còn sống có thể lãnh ân xá cho mình hay để nhường lại cho các linh hồn trong Luyện tội nhưng không thể nhường lại ơn huệ này cho tín hữu còn sống được.
IV- Sự khác biệt giữa Bí tích và Á bí tích
Bí tích là chính phương tiện cứu độ mà Chúa Giêsu đã thiết lập để ban ơn cứu độ cho mọi tín hữu đã gia nhập và đang hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội là Thân Thể Nhiệm Mầu của Chúa trên trần thế.Do đó, các bí tích đều liên hệ trực tiếp đến việc lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô, như bí tích rửa tội tha tội nguyên tổ và các tội cá nhân (đối với người dự tòng = catechumens) bí tích Thánh Thể biến bánh và rượu thành Mình Máu Chúa Kitô, bí tích hoà giải tha mọi tội nặng nhẹ trừ tội phạm đến Đức Chúa Thánh Thần như đã nói ở trên. Bí tích Thêm sức cho ta những ơn sủng đặc biệt của Chúa Thánh Thần để giúp sống xưng đáng là Kitô hữu trong trần thế . Bí tích Truyền Chức Thánh tiếp tục truyền thống Tông Đồ để ban quyền Thánh ( Sacra potestas) cho các người được tuyển chọn làm Phó Tế, Linh mục và Giám mục để phục vụ , giảng dạy, thánh hóa và chăm sóc dân Chúa được trao phó cho các ngài coi sóc về mặt thiêng liêng. Sự khác biệt căn bản giữa Bi tích và Á bí tích là ở điểm bí tích ban ơn thánh, tha tội và chữa lành ( hai bí tích hòa giải và sức dầu) trong khi Á bí tích là phương tiện để xin ơn lành của Chúa ban qua Phép lành mà linh mục, Giám mục hay của Đức Thánh Cha ban cho tín hữu, hoặc để thánh hóa đồ dùng trong phụng vụ thánh ( nước phép, bình đựng Mình Thánh, Chén Lễ, khăn thánh, tràng hạt và các ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các Thánh... Nhưng cần nói thêm là Phép lành( Blessing) dù là của Đức Thánh Cha, thì cũng không có mục đích tha tội nặng nhẹ nào cho người nhận lãnh.Tuy nhiên, Đức Thánh Cha có thể ban phép lành Tòa Thánh và ơn toàn xá cho bệnh nhân đang hấp hối , đã được xức dầu và tha mọi tội trong cơn nguy tử đó.Linh mục có quyền ban Phép lành này của Tòa Thánh cũng như tha mọi hình phạt cho người đang lâm cơn nguy tử với công thức quy định.
Sau đây là một vài thí dụ về sự khác nhau giữa bí tích và á bí tích
1. Nước phép và dầu thánh là Á bí tích được dùng làm chất liệu cần thiết để cử hành bí tích rửa tội. Dầu thánh( Chrism) cũng được dùng trong các bí tích thêm sức, sức dầu bệnh nhân và truyền chức thánh.
2. Thánh giá với tượng Chúa chịu nạn (crucifix) hay bình đựng Mình Thánh Chúa (Ciborium), Chén lễ =(Chalice) là á bí tích nhưng bánh và rượu được truyền phép (consecrated) là bí tích về sự hiện diện thực sự (real presence) của Chúa Kitô trên bàn thờ, trong nhà tạm (tabernacle). Do đó, chỉ phải thờ lậy (adore) Chúa Kitô trong hình bánh và rượu của bí tích Thánh Thể mà thôi. Đối với mọi ảnh tượng khác của Chúa Kitô, Đức Mẹ và các Thánh nam nữ thì chỉ được tôn kính (honor, venerate) chứ không thờ lậy vì đây là những á bí tích giúp ta liên tưởng đến Chúa Kitô, Đức Mẹ và các Thánh đang ở trên Trời mà ảnh tượng kia là những biểu tượng hữu hình ( visible symbols) giúp ta dễ nâng lòng lên với Chúa và cầu xin ( nhờ cậy) Đức Mẹ và các Thánh chuyển cầu thay cho ta trước Tòa Chúa.
3. Toà giải tội là á bí tích được dùng làm nơi cử hành bí tích hoà giải (xưng và tha tội).
4. Áo lễ linh mục, giám mục mặc là á bí tích để cử hành bí tích Thánh Thể (Thánh lễ tạ ơn = the Eucharist).
Vì thể không được mặc y phục hay quốc phục của bất cứ dân tộc nào khi cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn trong mọi dịp phụng vụ thánh, vì các y phục đó không phải là á bí tích được công nhận để dùng trong phụng vụ thánh.
Tóm lại, có sự khác biệt về mục đích và công dụng giữa các bí tích, á bí tích và ân xá như đã trình bày trên đây. Tuy khác nhau , nhưng đều có liên hệ với nhau trong mục đích lãnh nhận ơn thánh dồi dào của Chúa ban cho chúng ta trong Giáo Hội được thiêt lập như phương tiện hữu hiệu để ban phát ơn cứu độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.
Vì thế, mọi tín hữu đều được khuyến khích năng lãnh nhận các bí tích,( hòa giải, Thánh Thể và Sức dầu) dùng á bí tích với niềm tin và lòng mộ mến cũng như lợi dụng mọi dịp để lãnh ân xá hầu mưu ích thiêng liêng cho mình và cho các linh hồn trong luyện tội.
LM. Phanxixô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Giải pháp trong Kiến Trúc Xây Dựng hay !


Dùng mái tôn chống nồm ẩm trong nhà (theo vnexpress.net, ngày 27/03/2012)

Chỉ cần đặt một quạt hút gió nhỏ ở dưới mái tôn và quạt không khí nóng xuống các tầng dưới theo ô trống giữa cầu thang hoặc nếu cần thì theo các ống dẫn không khí bằng vải hoặc nilon sẽ có thể chống nồm ẩm trong nhà.
Mùa xuân hàng năm là mùa nồm ẩm ở miền Bắc, mọi thứ trong nhà đều chảy nước, mốc meo và xuống cấp thảm hại. Bài viết này trình bày một kinh nghiệm nhỏ, đơn giản nhưng có thể hạn chế phần nào tình trạng này.
Nồm là hiện tượng ngưng tụ của nước từ dạng hơi thành dạng lỏng khi có quá nhiều hơi nước trong không khí. Khi trời nắng, nhiệt độ không khí bên ngoài cao hơn trong nhà nên hơi nước ngưng tụ trong nhà dù ngoài trời rất quang đãng. Độ ẩm không khí càng cao, bề mặt các đồ vật càng lạnh sự ngưng tụ càng nhanh và nhiều.
Để chống nồm, một số người thường bật điều hòa hoặc dùng máy hút ẩm. Tuy nhiên, hai phương pháp này có một số bất tiện như tốn điện, khả năng hút ẩm chỉ mang tính cục bộ và không phải nhà nào cũng có hai phương tiện này.
Một biện pháp chống nồm khác là tăng nhiệt độ trong nhà để tăng ngưỡng ngưng tụ nước. Chỉ có điều biện pháp này đòi hỏi rất nhiều năng lượng, rất tốn kém nếu dùng lò sưởi điện, rất bất tiện và nguy hiểm nếu dùng lò sưởi than.
Nhưng có một “lò sưởi” khá phổ biến, “chạy” bằng năng lượng mặt trời ở ngay trên mỗi nóc nhà của chúng ta. Đó chính là mái tôn vốn được thiết kế để chống nóng và chống thấm dột.
Chỉ cần một chút nắng nhẹ, tôn sẽ hấp thụ ánh sáng mặt trời, tăng nhiệt độ rất nhanh và truyền nhiệt ra xung quanh khiến không khí dưới mái tôn thường cao hơn không khí bên ngoài từ vài độ tới cả chục độ (nhưng vẫn thấp hơn mức nóng mà một mái bê tông có thể đạt được nếu hấp thụ trực tiếp ánh nắng mặt trời nên mái tôn vẫn có tác dụng chống nóng).
***Tất cả những gì ta cần làm là đặt một quạt hút gió nhỏ ở dưới mái tôn và quạt không khí nóng xuống các tầng dưới theo ô trống giữa cầu thang hoặc nếu cần thì theo các ống dẫn không khí bằng vải hoặc nilon.
Phương pháp này không chỉ có hiệu quả trong những ngày có nắng mà cũng có hiệu quả nhất định ngay trong những ngày trời mù hay mưa phùn vì không khí ở trên cao nhìn chung vẫn ít ẩm hơn không khí ở phía dưới.
Cần lưu ý làm sạch trần nhà và mái tôn để không khí thổi xuống không có bụi, mốc. Cũng nên lưu ý bố trí công tắc bật - tắt quạt ở phía dưới để dễ điều khiển.
Đây là giải pháp đối với các nhà đã được xây. Với những nhà sắp xây dựng, có thể yêu cầu các nhà kiến trúc và xây dựng tích hợp luôn các phương tiện chống nồm trong quá trình xây dựng.
Như vậy, mái tôn không chỉ để chống nắng nóng vào mùa hè, chống mưa bão vào mùa thu mà còn có thể dùng để sưởi ấm vào mùa đông và chống nồm ẩm vào mùa xuân. Hoàng Giáp

Chúa Nhật V Phục Sinh năm B


Để Sinh Hoa Kết Trái Xum Xuê



Chúa Nhật V Phục Sinh B

Đức cố giáo hoàng Phaolô VI đã từng nhấn mạnh rằng phát triển là hình thức truyền giáo của thời đại hôm nay. Phát triển bản thân, xã hội cũng như Giáo Hội là một đòi hỏi có tính tất yếu để sống còn. Kitô hữu chúng ta vốn quen thuộc với dụ ngôn “những nén vàng hay nén bạc” mà Chúa Giêsu kể trong Tin mừng ( x.Mt 25,14-30; Lc 19,12-27 ). Không làm sinh lợi những gì chúng ta đã lãnh nhận là một thái độ không chỉ đáng trách mà còn đáng trừng phạt. Ngay đêm Tiệc ly, trước khi chịu tử nạn, Chúa Kitô đã khẳng định: “ Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” ( Ga 15,16 ). Người còn nói rõ: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” ( Ga 15,8 ).Qua hình ảnh cây nho, Chúa Kitô cho ta thấy hai điều kiện không thể thiếu nếu muốn đơm hoa kết trái. Đó là gắn bó và cắt tỉa.

Gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu:
Chúa Giêsu đã làm nổi rõ chân lý này khi tự ví mình là thân nho, còn chúng ta là cành nho. Tách lìa khỏi thân nho thì cành nho sẽ chết. Mọi sự đều là ân sủng Chúa. Sự hiện hữu của chúng ta là do ân ban từ trời. Để tồn tại và phát triển, không một ai có thể tách lìa khỏi nguồn mạch tác tạo nên chính mình. Đã là người, chúng ta dễ chân nhận rằng thái độ sống kiểu “vong bản”, hay “mất gốc”, không chóng thì chầy cũng sẽ bị huỷ diệt. Người ta cũng dễ đồng thuận với nhau về những nguồn gốc tự nhiên là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, là nơi chôn nhau cắt rốn, là tổ quốc, quê hương. Tuy nhiên, nguồn gốc của mọi nguồn gốc tự nhiên ấy là gì, là ai, là Đấng nào thì còn tuỳ ở quan điểm, ở niềm tin của mỗi người.

Như thế, nền tảng và động lực của sự gắn bó này đó là sự nhìn nhận nguồn gốc, xuất xứ của bản thân mình. Một trong những nét trỗi vượt của con người trên các loài thụ tạo hữu hình khác chính là biết hướng về cội nguồn. Thực tế cho ta khẳng định điều này. Các loài vật càng lớn lên thì chúng càng như quên mất cội nguồn sinh ra chúng. Với con người thì trái lại, càng thêm tuổi thì khao khát truy về nguồn càng mãnh liệt. Không kể các anh em vô thần hay vô tín, nói chung, nhân loại xưa nay vốn có tâm thức hướng về Đấng Tạo Thành, Đấng tác sinh mọi vật, mọi loài. Một trong những biểu hiện tâm thức này là lòng biết ơn, sự cảm tạ. Vào mỗi dịp năm hết, Tết đến hay vào các dịp lễ tiết theo phong tục tập quán như khởi đầu công việc, sau vụ mùa…những nén hương được thắp lên cùng các lễ vật bày ra cách này cách khác, chính là tấm lòng cảm tạ, biết ơn được dâng lên Đấng là cội nguồn các ơn lành đã lãnh nhận.

Với Kitô giáo, hình thức gắn bó với Thiên Chúa có thể gọi là căn bản, đó là sự thờ phượng. Cầu nguyện bằng nhiều hình thức là cách thế biểu lộ sự thờ phượng. Tuy nhiên một trong các tâm tình cầu nguyện nói lên sự gắn bó của chúng ta với Đấng là cội nguồn của mọi sự, mọi loài, đó là tâm tình cảm tạ, tri ân. Vừa qua, có anh bạn gửi cho tôi đoạn video clip thật cảm động trình bày một cảnh sống có thật như sau: Một anh nhà nghèo, làm nghề thu dọn thức ăn thừa trong một quán ăn ( theo cảnh quay thì có lẽ là ở nước Mỷ ). Các thực khách ăn uống rất phí phạm. Đồ ăn thừa đáng gọi là ê hề. Trong khi đổ các thức ăn thừa vào thùng rác thì anh nhà nghèo này không quên lọc, giữ lại những thức ăn có thể dùng được như là những đùi thịt gà mà người ta chỉ ăn một tí, qua loa hay chỉ ăn có một nửa và chí ít là còn một phần ba, phần tư thịt thừa. Cuối giờ làm anh ra về với bọc thức ăn thừa. Đó là mấy cái đùi thịt gà mà khách ăn còn dư chút thịt ít nhiều. Vào bàn dùng bữa, anh đổ các đùi thịt gà thu lượm được ra trước mặt vợ và bốn đứa con đang hăm hở chép miệng chờ ăn. Cả nhà ngồi vào bàn. Bổng cô con gái nhỏ, khoảng 8 tuổi, cầm vội một đùi thịt gà hầu như chỉ còn là xương, may ra còn dính chút thịt mà khách ăn còn dư. Cũng có thể vì quá đói, mà cũng có thể vì bé nghĩ rằng miếng này ít thịt nên cả nhà không tính số. Bổng người cha lấy tay ngăn em bé lại. Tôi ngạc nhiên, nhưng sự ngạc nhiên ấy lại tiếp nối bằng sự ngỡ ngàng cùng vài giọt lệ ngấn trên khoé mắt khi thấy người cha ra hiệu cho cả nhà làm dấu Thánh Giá, dâng lời cám ơn Chúa trước khi dùng những miếng thịt gà thừa mà khách ăn đã bỏ đi.

Kitô hữu chúng ta hiểu rằng đỉnh cao của việc thờ phượng là Thánh Lễ. Tham dự Thánh Lễ là tham dự vào hy tế tạ ơn mà Chúa Kitô đã hiến dâng trên thập giá xưa nay được hiện tại hoá trên các bàn thờ. Chúa Kitô nhìn nhận mọi sự của Người là do Chúa Cha trao ban. Trên thập giá, Người trao dâng lại cho Chúa Cha tấm xác thân và linh hồn mà Cha ban cho Người khi Người vào trần gian. Hành vi tự hiến này nói lên sự gắn bó thiết thân của Người với Cha trên trời. Người đã khẳng định rằng Người với Cha là một ( x.Ga 10,30 ). Sự tạ ơn là một động thái thờ phượng tuyệt hảo, biểu lộ sự gắn bó của chúng ta với cội nguồn của mình. Và khi gắn bó với nguồn của mọi ân sủng thì chuyện sinh hoa kết trái là chuyện đương nhiên sẽ đến.

Cắt tỉa:
Để đơm bông kết trái ngày càng nhiều và tươi tốt, Chúa Giêsu còn đề cập đến sự cắt tỉa. Nói đến sự cắt tỉa thì nông gia rất dễ am tường. Sự thưòng của cây trồng, khi giảm phát sinh thì tăng phát dục. Cứ đến kỳ, đến vụ, nhà nông lại làm cành, tỉa cây để mong có mùa màng bội thu.. Để lớn lên, con rắn cần phải lột bỏ lớp da cũ. Để tung bay giữa trời xanh cánh bướm phải giả từ cái kén ấm êm. Cuộc đời con người cũng tương tự, dù là cá nhân hay tập thể, để tồn tại và phát triển, rất cần đến sự cắt tỉa, nói cách khác là cần sự dứt bỏ, đoạn tuyệt. Tuy nhiên, phải làm rõ những gì cần dứt bỏ và đoạn tuyệt.

Trước hết, cần dứt bỏ những yếu tố không còn sự sống hay những yếu tố tật bệnh làm ảnh hưởng đến sự sống, sự phát triển. Người ta dễ dàng loại bỏ các cành khô của cây, nhưng lại rất khó để đoạn tuyệt với tội lỗi của bản thân mình, dù tội lỗi được đồng hoá với sự chết. Dưới cái nhìn luân lý học ngày nay, thì chỉ có tội trọng mới được gọi là tội nguy tử, gây ra cái chết đời đời. Người phạm tội nguy tử là lỗi phạm luật Chúa trong một điều nặng, có ý thức đầy đủ và tự do hoàn toàn. Là Kitô hữu bình thường thì ít ai dám to gan ở lì trong tình trạng nguy tử này. Nhưng chúng ta có thể dây dưa trong tình cảnh chẳng chết mà chẳng sống. Có thể xem tình trạng này như những cành cây đang bị sâu bệnh. Nhà nông thì không tiếc xót gì khi cắt tỉa chúng, còn chúng ta thì quả là khó dứt bỏ những lỗi mọn. Xin hãy nhớ lại những lần chúng ta đến toà cáo giải, hình như đang có đó nhiều tội mà bản thân cứ mãi xưng thú đi, xưng thú lại không biết bao nhiêu lần.

Trở lại với nghề nông, các nông gia chuyên nghiệp vẫn không ngần ngại cắt tỉa những cành lá không sâu bệnh, có khi là xanh tốt, nhưng chúng không có khả năng sinh hoa trái, lại còn ảnh hưởng đến sự sinh hoa trái của các cành khác, chẳng hạn như những chồi vượt sát gốc thân cây…Đọc sách Công vụ tông đồ, chúng ta cần chân nhận sự can đảm của các nghị phụ Công đồng Giêrusalem. Đoạn tuyệt với lễ nghi cắt bì, một nghi lế gia nhập Da Thái giáo ( tương tự với bí tích Thánh Tẩy của Kitô giáo ), đúng là một quyết định kiên cường, dĩ nhiên sẽ phải hứng chịu nhiều điều không như ý: bị cho là bội giáo, mất gốc, vong bản, phản bội…

Vừa phải biết trở về nguồn để đi theo đường lối tông truyền, khỏi phải chệch hướng, nhưng cũng phải biết cắt tỉa những yếu tố nhân loại cho dù đã thành truyền thống của thời đã qua mà nay không còn phù hợp cho sự phát triển. Vuông trong hai nhiệm vụ này quả là không mấy dễ. Trong thực tế, nhiều khi khó phân biệt rõ ràng các yếu tố tông truyền nghĩa là được truyền từ Chúa Kitô qua các tông đồ đến chúng ta và các yếu tố của truyền thống cha ông một thời mà nay đã “lỗi thời”. Bên cạnh đó tâm lý hoài cổ hoặc cho rằng “rượu cũ thì ngon hơn” vẫn còn đó ảnh hưởng.

Xin được bỏ qua lãnh vực lớn là xã hội và Giáo Hội, để nhấn mạnh đến đời sống cá nhân. Có nhiều điều mà chúng ta cần phải cắt tỉa để phát triển và sinh hoa kết trái trong đời sống nhân bản lẫn tâm linh. Tuy nhiên xin được nhấn mạnh đến một điều rất cần cắt tỉa đó là thái độ tự cao, tự đại cho rằng: “bàn tay ta làm nên tất cả…”. Kiêu ngạo là mối tội đầu tiên trong bảy mối tội lớn, và cũng là đầu mối của của mọi sự tội.

Khi đã cho rằng mọi sự ta có, ta là, đều do bởi tay ta thì ta chẳng cần đến bất cứ ai và dĩ nhiên chẳng cần đến Đấng Tạo thành. Một điều tất yếu, khi ta tự tách lìa khỏi nguồn cội thì phải lãnh lấy hậu quả là sự chết. Chúa Cha sai Chúa Con đến thế gian không phải để luận phạt hay xét xử thế gian, nhưng để những ai tin vào Người Con, gắn bó với Người Con thì sẽ được sống muôn đời và sinh trái đơm hoa ( x. Ga 3,16; 15,5). Xin đừng quên: cành nào lìa cây sẽ khô héo liền ( x. Ga 15,6 ).

Cắt tỉa sự tự cao, tự đại để thêm gắn bó với Đấng mà nhờ Người mọi vật mọi loài được tác thành ( x. Col 1,15-16 ). Gắn bó với Người thì chắc chắn ta sẽ đơm hoa, kết trái trĩu cành. Và rồi khi Chúa đến, Người sẽ nói với ta: “ Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ ngươi” ( Mt 25,21 ). Ngoài việc chuyên chăm tham dự Thánh Lễ, thì theo thiển ý, những thực hành đạo đức như cầu nguyện trước, sau các bữa ăn, cầu nguyện mỗi sáng khi thức dậy và mối tối trước khi buông màn, làm dấu Thánh giá khi vào sân bóng hay sau khi ghi được bàn thắng…sẽ giúp ta cắt tỉa những điều xấu xa, tồn tại, để ngày càng gắn bó với Đấng mà nếu không có Người thì ta sẽ không làm được sự gì tốt đẹp ( x. Ga 15,5 ).

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa