Thứ Hai, 14 tháng 3, 2011

Những Cơn Cám Dỗ ngọt ngào muôn thuở !





Cám dỗ

Đã mang thân phận con người, chẳng ai thoát khỏi cám dỗ. Cám dỗ luôn thường trực trong cuộc sống hằng ngày, như tấm lưới mạng nhện khổng lồ sẵn sàng chụp xuống để bao bọc và giết chết con mồi. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”, đối diện với cám dỗ cũng là dịp để chúng ta khẳng định mình, nhờ đó mà có thêm kinh nghiệm trên bước đường trần gian.

Cám dỗ là gì?

– Là khơi dậy lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã (Từ điển bách khoa W).
– Là tìm mọi cách quyến rũ làm việc gì không hay (Từ điền từ và ngữ Việt Nam – Nguyễn Lân, nxb Tp HCM 1998).

Hai định nghĩa trên cho thấy động lực của cám dỗ đều là xấu, đi ngược lại với luân thường đạo lý và để lại những hậu quả không tốt nơi bản thân cũng như nơi những người xung quanh.
Cám dỗ chẳng buông tha ai. Khi suy nghĩ về cuộc đời, cụ Tú Xương đã phải thốt lên:
“Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà”.
Đối với cụ Tú Xương, là người vui với rượu, buồn với trăng và chí thiết cùng thơ, chỉ có “ba cái lăng nhăng” được nhận diện trong một đại dương những cám dỗ đang muốn nhấn chìm con người. Trong thực tế, những cơn cám dỗ không dừng lại ở con số thống kê, nhưng nó đa dạng, muôn màu muôn vẻ. Cám dỗ thường núp bóng dưới những ngôn từ bóng bẩy và những lời mời chào đường mật. “Mật ngọt chết ruồi”, biết bao người đã dại dột ảo tưởng nghe theo và khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn màng. Trong thời buổi kinh tế thị trường, những cơn cám dỗ cũng kèm theo một “nghệ thuật tiếp thị” với những viễn tượng huy hoàng đầy ma lực hấp dẫn. Xin đưa ra vài nhận định về những loại hình cám dỗ trong cuộc sống hôm nay.
1- Loại hình cám dỗ thứ nhất là phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa
Núp dưới những danh từ rất ấn tượng như “nhân bản”, “tự do”, “giải phóng”, một số người muốn phủ nhận Thiên Chúa và tuyên dương chủ nghĩa vô thần. Họ hô to khẩu hiệu: “Thiên Chúa đã chết”, hoặc “Tôn giáo là thuốc phiện mê dân”. Họ coi con người chính là những “thượng đế”. Họ phủ nhận mọi tôn giáo cũng như các thần linh. Đây cũng là cơn cám dỗ của ông bà nguyên tổ Ađam và Evà. Con rắn đã dùng những lời ngọt nào để dụ dỗ ông bà bỏ qua lệnh truyền của Chúa. Vì muốn được ngang hàng với Thiên Chúa, ông bà đã phủ nhận thân phận thụ tạo của mình. Khi muốn “biết sự thiện sự dữ”, ông bà không chỉ muốn trở nên những người khôn ngoan, nhưng còn muốn nắm quyền bá chủ, vì biết sự thiện sự ác là vai trò của một quan tòa, nhằm đưa ra những kết luận để tuyên phạt các tội nhân. Trong xã hội hôm nay, do ảnh hưởng của chủ thuyết tương đối, người ta muốn cào bằng mọi tôn giáo cũng như mọi giá trị luân lý. Thiên Chúa bị xếp chung với một mớ tổng hợp các loại thần linh. Nơi một số tín hữu công giáo, đức tin cũng bị chao đảo: họ vừa tin Chúa vừa tin bói toán và mê tín dị đoan. Hiện tượng này có thể được gọi bằng một danh từ xem ra nghịch lý: tôn giáo vô thần. Bởi lẽ chúng mang danh tôn giáo mà lại không có đức tin hoặc nếu có thì đó là một đức tin cầu lợi. Thay vì tôn nhận Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên mình, con người hôm nay lại đang sáng tạo ra một “thiên chúa” dị dạng theo tham vọng của họ. Không có Thiên Chúa hiện hữu, cuộc sống này sẽ trở nên vô nghĩa. Đức Bênêđictô đã quả quyết: “Một nền nhân bản loại trừ Thiên Chúa là một nền nhân bản phi nhân” (Thông điệp Bác ái trong Chân lý, số 78).
2- Loại hình cám dỗ thứ hai là tôn thờ của cải vật chất
Trong nền kinh tế thị trường, xã hội bị biến đổi thành một cái chợ mênh mông. Chợ là nơi mà lợi nhuận là mục đích hàng đầu. Đó cũng là nơi người mua kẻ bán chẳng ai tin nhau, dù có là xóm làng thân thích. Khi cuộc sống này đã biến thành chợ, thì mọi sự đều có thể trở nên hàng hoá. Từ đất đai, nhà cửa cho đến tình nghĩa vợ chồng; từ con cá mớ rau cho đến tình thân huyết nhục. Tất cả đều có thể trở nên một món hàng để người ta mua đi bán lại. Tiền bạc vật chất đã gây ra biết xung đột khiến tình huynh đệ tương tàn, vợ chồng xa cách. Người ta vì vật chất mà đánh đổi cả tương lai, chấp nhận những cuộc hôn nhân như một canh bạc đỏ đen may rủi. Cũng vì lợi nhuận mà nhiều người chấp nhận làm những ngành nghề hái ra tiền một cách nhanh chóng, nhưng đó cũng là lý do dẫn họ vào tù. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay: “Sự tôn thờ của cải không những làm cho ta xa lìa tha nhân, mà còn làm cho con người trở nên trống rỗng, bất hạnh, bị lừa đảo, bị ảo tưởng mà không thực hiện được điều của cải hứa hẹn, vì con người đặt vật chất vào chỗ của Thiên Chúa là nguồn mạch duy nhất của cuộc sống” (Trích Sứ điệp Mùa Chay 2011). “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia… Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Đức Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh táo khôn ngoan trong việc sở hữu và sử dụng của cải nhất thời.
3- Loại hình cám dỗ thứ ba là sự hằn thù, chia rẽ
Vào thời điểm mà người ta không tin có hoạt động của ma quỷ, thì chính là lúc Satan đang hoành hành. Satan chính là kẻ nói dối, là tên sát nhân ngay từ ban đầu của lịch sử (x Ga 8,44). Trong vườn địa đàng, con rắn “ỡm ờ” nói với bà Evà: “chẳng chết chóc gì đâu, nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, điều ác” (St 3,4-5). Qua những lời kích động này, ma quỷ gieo vào lòng bà sự nghi ngờ Thiên Chúa, xem ra Thiên Chúa không thương ông bà thực sự. Dường như Ngài là “lực cản” khi ông bà muốn vươn tới hạnh phúc. Lời cám dỗ ngọt ngào của con rắn còn được minh hoạ bằng sắc đẹp và hương vị của trái cấm: “Người đàn bà thấy rằng cây đó ăn thì ngon, trông thật sướng mắt” (St 3, 6). Ngày nào cũng đi dạo trong vườn, mà chỉ hôm nay bà Evà mới thấy trái cây vừa đẹp vừa ngon! Thế rồi bà Evà đã phạm tội vì nghe “những lời có cánh” của con rắn. Tội đã chia rẽ mối thân tình giữa Chúa với ông bà. Còn đâu nữa những buổi đàm đạo với Chúa trong làn gió hiu hiu mỗi khi chiều về?. Satan cũng là kẻ cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa, nhằm mục đích phá huỷ chương trình của Thiên Chúa.

Trong mối tương quan đời thường, lý do dẫn đến chia rẽ rất đa dạng: có thể do vây cánh, họ hàng; có thể vì lợi lộc vật chất. Có trường hợp người ta chia rẽ nhau vì những lý do rất “thánh thiện”, như bất đồng quan điểm trong việc tổ chức hội đoàn, kinh lễ. Vì ích kỷ nên chẳng ai chịu ai, nên chia rẽ sinh ra từ đó.

Một loại hình cám dỗ mang ý đồ chia rẽ cũng xuất hiện qua những phương tiện thông tin. Theo tâm lý thông thường, người ta dễ tin dư luận xấu hơn là dư luận tốt. Những thông tin tiêu cực về một cá nhân lại được loan truyền nhanh hơn những thông tin tích cực. Nhiều tác giả đã không ngần ngại bẻ cong ngòi bút vì mục đích lợi nhuận hoặc vì muốn hạ bệ, tiêu diệt người khác. Không ít người đã cả nể dễ tin và rơi vào cạm bẫy của những cơn cám dỗ này.

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”

Mỗi khi Mùa Chay về, phụng vụ giới thiệu với chúng ta hình ảnh Đức Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa. Cách nói “tên cám dỗ” của Thánh Mátthêu cho thấy ma quỷ mang hình hài một con người, với những lời vừa ngọt ngào, vừa thách thức: “Nếu ông là con Thiên Chúa…”. Lời của tên cám dỗ mang cùng một âm hưởng với lời của con rắn vào thuở ban đầu của lịch sử. Bị cám dỗ về bánh ăn khi đang đói, Đức Giêsu còn bị lôi kéo để thử thách quyền năng Thiên Chúa và sở hữu quyền lực trần gian. Đức Giêsu đã chiến thắng những mưu mô của ma quỷ bằng Lời Hằng Sống và bằng niềm xác tín nơi Chúa Cha.

Khi nào thì người ta mắc tội “sa chước cám dỗ?”. Đối diện với cám dỗ, con người có tự do chấp nhận ngả theo hoặc chống lại. Cám dỗ mới chỉ là những hình ảnh, lời nói, môi trường hoàn cảnh “khơi dậy lòng ham muốn”. “Cám dỗ” trở thành “tội lỗi” khi người ta tự do ưng thuận và thoả hiệp với điều xấu. Đức Giêsu đã đối diện với cám dỗ và Người đã chiến thắng. Chúng ta cũng sẽ chiến thắng cám dỗ, nếu sống đời nội tâm sâu xa và thực thi Lời Chúa.

Đức Giêsu mời gọi chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,38). Người đang hiện diện để nâng đỡ chúng ta trong cuộc chiến cam go của hành trình nên thánh. “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, lời cầu nguyện do Đức Giêsu dạy, sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh và sự bình an.


Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Thứ Năm, 10 tháng 3, 2011

NGÔN NGỮ CỨU ĐỘ CỦA THẬP GIÁ CHÚA GIESU KITO

Phía Sau Cây Thập Giá
01/02/2011 1:40 PM

Nguyễn Hiền Nhu

Bạn đọc viếtKhông có bình luận Bạn có biết tại sao khi nghe hai chữ “thập giá” chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có khi còn dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ nghe nói đến thập giá thì nổi da gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó? Có lẽ vì chúng ta chỉ thấy những cây thánh giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn bóng hay bằng xi-măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi lên trong ta không có gì đáng sợ. Còn các môn đệ thì trái lại chưa bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc… và hai chữ này không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng.

Chính vì thế mà các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.

Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng và Chúa đòi ai muốn theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình đi, vác lấy thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau Thầy”.

Ông Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa thì Ngài lại bắt đầu nói đến thập giá. Thập giá xuất hiện ở đây như “mặt sau của tấm huân chương”. Nhưng sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, và cho các ông thấy vinh quang chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môsê và Êlia: một vị đã được Chúa dùng để công bố giao ước Sinai, vị kia thì được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước Sinai.

Theo thánh Luca thì Chúa Giêsu đàm đạo với hai vị này về cuộc xuất hành Ngài phải hoàn thành tại Giêrusalem. Như vậy thì ta có thể đảo lại: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây thập giá làm các ông run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì. Sau này trên đường Emmaus, Chúa sẽ quở trách hai người môn đệ thất vọng bỏ đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy mặt sau của cây thập giá: “Chẳng phải là Ðức Kitô phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang của Ngài sao?”

Nếu ôm lấy cây thập giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận lấy thập giá như đường tới vinh quang. Ðàng sau thập giá là vinh quang mà chỉ có đức tin mới cho ta thấy được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa ta mới tới được vinh quang ở sau cây thập giá.

Trong cuộc sống, có những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi bạn cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và những lời độc địa chát chúa của khách qua đường; bạn cảm thấy nỗi cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng giửa trời và đất; bạn khát khô cổ muốn có một lời an ủi, một chút cảm thông, nhưng quanh bạn chỉ có thờ ơ và thinh lặng, hoặc tệ hơn nữa chỉ có phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy bạn mới cảm thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập giá. Có khi bạn cảm thấy chán nản muốn buông xuôi tất cả. Bạn cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải kêu lên: “Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ con…”

Những lúc ấy bạn phải vận dụng hết sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng đức tin, để thấy được đàng sau cây thập giá. Bạn hãy nhìn thẳng vào Ðấng đang vác thập giá đi đàng trước bạn, chớ rời mắt xa Ngài.

Nhưng bạn đừng chờ tới lúc đó mới nhìn vào Ngài. Bạn phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi mọi lúc, mọi việc. Bạn hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài, và trong Ngài.

Nếu bạn biết sống với Ngài trong niềm vui,

bạn cũng biết sống với Ngài trong nỗi buồn.

Nếu bạn biết sống trong Ngài khi hạnh phúc,
bạn cũng biết sống trong Ngài lúc khổ đau.

Nếu bạn biết sống với Ngài trong ngày hội,
bạn cũng biết sống với Ngài giữa cô đơn.

Ðiều tôi muốn nhắc bạn ngàn lần là bạn đừng mang thập giá một mình. Bạn sẽ không bước nổi đâu, và nếu bạn có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá của bạn chỉ là cây gỗ chết thôi. Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang Con Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống mà thôi:

“Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài…” (2Tim 2,11)

Nhưng tôi cũng nhắc bạn rằng thường khi thập giá đè nặng lên vai thì chúng ta cũng tối tăm mắt mũi, hầu như chẳng còn nhớ ra điều gì, chẳng nhớ đến ai nữa. Cái khó nhất là ở đó. Chính lúc ta cần nhớ đến Chúa nhất thì hầu như ta không nhớ nổi. Chính lúc ta cần cảm nhận sự hiện diện của Chúa nhất, thì lại là lúc Chúa như ở xa ngàn trùng và lẩn trốn trong bóng đêm dày đặc. Ðó là khi mà cuộc đời bạn trở nên phong phú nhất, như hạt giống khi được vùi xuống đất. Lúc ấy bạn hãy giữ lòng mình hướng về ánh sáng của thảo mộc, và khi mầm lách được vỏ hạt giống thì nó xé qua màn đêm của lòng đất để vươn lên ánh sáng, hứng lấy màu xanh và sức sống. (Còn hạt giống nào nằm khơi khơi trên mặt đất thì có nẩy mầm cũng héo khô)


LM Nguyễn Công Đoan SJ

NGÔN NGỮ CỨU ĐỘ CỦA THẬP GIÁ CHÚA GIE6SU KITO


Phía Sau Cây Thập Giá
01/02/2011 1:40 PM

Nguyễn Hiền Nhu

Bạn đọc viếtKhông có bình luận Bạn có biết tại sao khi nghe hai chữ “thập giá” chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có khi còn dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ nghe nói đến thập giá thì nổi da gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó? Có lẽ vì chúng ta chỉ thấy những cây thánh giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn bóng hay bằng xi-măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi lên trong ta không có gì đáng sợ. Còn các môn đệ thì trái lại chưa bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc… và hai chữ này không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng.

Chính vì thế mà các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.

Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng và Chúa đòi ai muốn theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình đi, vác lấy thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau Thầy”.

Ông Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa thì Ngài lại bắt đầu nói đến thập giá. Thập giá xuất hiện ở đây như “mặt sau của tấm huân chương”. Nhưng sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, và cho các ông thấy vinh quang chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môsê và Êlia: một vị đã được Chúa dùng để công bố giao ước Sinai, vị kia thì được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước Sinai.

Theo thánh Luca thì Chúa Giêsu đàm đạo với hai vị này về cuộc xuất hành Ngài phải hoàn thành tại Giêrusalem. Như vậy thì ta có thể đảo lại: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây thập giá làm các ông run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì. Sau này trên đường Emmaus, Chúa sẽ quở trách hai người môn đệ thất vọng bỏ đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy mặt sau của cây thập giá: “Chẳng phải là Ðức Kitô phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang của Ngài sao?”

Nếu ôm lấy cây thập giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận lấy thập giá như đường tới vinh quang. Ðàng sau thập giá là vinh quang mà chỉ có đức tin mới cho ta thấy được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa ta mới tới được vinh quang ở sau cây thập giá.

Trong cuộc sống, có những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi bạn cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và những lời độc địa chát chúa của khách qua đường; bạn cảm thấy nỗi cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng giửa trời và đất; bạn khát khô cổ muốn có một lời an ủi, một chút cảm thông, nhưng quanh bạn chỉ có thờ ơ và thinh lặng, hoặc tệ hơn nữa chỉ có phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy bạn mới cảm thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập giá. Có khi bạn cảm thấy chán nản muốn buông xuôi tất cả. Bạn cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải kêu lên: “Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ con…”

Những lúc ấy bạn phải vận dụng hết sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng đức tin, để thấy được đàng sau cây thập giá. Bạn hãy nhìn thẳng vào Ðấng đang vác thập giá đi đàng trước bạn, chớ rời mắt xa Ngài.

Nhưng bạn đừng chờ tới lúc đó mới nhìn vào Ngài. Bạn phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi mọi lúc, mọi việc. Bạn hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài, và trong Ngài.

Nếu bạn biết sống với Ngài trong niềm vui,

bạn cũng biết sống với Ngài trong nỗi buồn.

Nếu bạn biết sống trong Ngài khi hạnh phúc,
bạn cũng biết sống trong Ngài lúc khổ đau.

Nếu bạn biết sống với Ngài trong ngày hội,
bạn cũng biết sống với Ngài giữa cô đơn.

Ðiều tôi muốn nhắc bạn ngàn lần là bạn đừng mang thập giá một mình. Bạn sẽ không bước nổi đâu, và nếu bạn có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá của bạn chỉ là cây gỗ chết thôi. Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang Con Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống mà thôi:

“Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài…” (2Tim 2,11)

Nhưng tôi cũng nhắc bạn rằng thường khi thập giá đè nặng lên vai thì chúng ta cũng tối tăm mắt mũi, hầu như chẳng còn nhớ ra điều gì, chẳng nhớ đến ai nữa. Cái khó nhất là ở đó. Chính lúc ta cần nhớ đến Chúa nhất thì hầu như ta không nhớ nổi. Chính lúc ta cần cảm nhận sự hiện diện của Chúa nhất, thì lại là lúc Chúa như ở xa ngàn trùng và lẩn trốn trong bóng đêm dày đặc. Ðó là khi mà cuộc đời bạn trở nên phong phú nhất, như hạt giống khi được vùi xuống đất. Lúc ấy bạn hãy giữ lòng mình hướng về ánh sáng của thảo mộc, và khi mầm lách được vỏ hạt giống thì nó xé qua màn đêm của lòng đất để vươn lên ánh sáng, hứng lấy màu xanh và sức sống. (Còn hạt giống nào nằm khơi khơi trên mặt đất thì có nẩy mầm cũng héo khô)


LM Nguyễn Công Đoan SJ

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2011

Sống Mùa Chay Thánh 2011 ! Tạ ơn Chúa. Lm Inhaxio Trần Ngà

TÂM TÌNH MÙA CHAY


--------------------------------------------------------------------------------

THỨ TƯ LỄ TRO

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

"Cá thì dễ ươn, thây ma dễ thối, con người dễ hư."


Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối. Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi nhà vua sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả chồng bà là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II S 11) Rồi ngay cả con vua Đa-vít là Salômôn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng quá mê đắm xác thịt, có đến bảy trăm thê thất và ba trăm hầu thiếp, xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I V 11, 1-13). Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối : hư thối vì tham nhũng, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…

Triết gia Platon diễn tả thân phận con người "như cỗ xe có hai ngựa kéo". Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau. Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của ngài: "Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét", …thật khốn thân tôi!”

Nhân loại phải mất hàng triệu năm tiến hoá mới có thể thoát ra khỏi hang động và đời sống man rợ, nhưng con người ngày nay chỉ cần vài phút yếu lòng là có thể trở về với đời sống man rợ đó. Dường như thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.

Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su.

Cuộc đời chúng ta cũng giống như những con thuyền bơi ngược dòng, phải luôn luôn vững tay chèo lái, phải luôn quyết tâm vươn về nguồn mà không để đời mình trôi xuôi theo dục vọng, thì mới có thể tiến về nguồn là Chúa Ki-tô. Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.

Khi làm người, Chúa Giê-su mang thân phận con người hoàn toàn y như chúng ta. Ngài cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Ngài cũng đã từng chịu, có khác là Ngài đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Ngài luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15). Y chí chúng ta vốn mềm yếu. Xác thịt thì quá nặng nề. Đam mê tội lỗi luôn thôi thúc lôi kéo chúng ta xuống vực. Những quyến rũ ở đời dễ làm chúng ta ươn thối… Chúng ta thừa biết rằng tự sức mình, chúng ta không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ. Vậy trong mùa chay nầy, chúng ta hãy vào sa mạc tâm hồn mà chiến đấu cùng Chúa Giê-su, với Chúa Giê-su. Hãy luôn kết hiệp với Chúa Giê-su, hãy để cho lời Ngài nên khí cụ giúp ta chiến đấu. Hãy rước lấy Mình Máu thánh Ngài hằng ngày để kết hiệp gắn bó với Ngài hơn. Và một khi có Ngài ở bên chúng ta, ở trong chúng ta, cùng chiến đấu với chúng ta thì chúng ta mới có thể chiến thắng được tội lỗi và trung thành đi theo đường lối Thiên Chúa như Ngài.

Sống Mùa Chay Thánh 2011 ! Tạ ơn Chúa.

TÂM TÌNH MÙA CHAY


--------------------------------------------------------------------------------

Ý NGHĨA MÙA CHAY

I. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ MÙA CHAY
Trong tiếng La-tinh, Mùa Chay là QUADRAGESIMA, từ nầy có nghĩa là “40”. Trong Mùa Chay, chúng ta cùng sống với Đức Kitô 40 ngày trong sa mạc, để trải qua cuộc hành trình 40 năm của dân It-ra-en tiến về Đất hứa. Trong suốt thời gian dài đằng đẳng nầy, đoàn dân ông Mô-sê lãnh đạo thường phải đói khát, đôi khi nản chí và lắm lần quị ngã bất trung. Nhưng đặc biệt, chính trong cuộc “trường hành” nầy, họ đã có được cái kinh nghiệm độc nhất vô nhị về sự dạy bảo và lòng ưu ái thiết tha của Thiên Chúa dành cho họ.

Cuộc trải nghiệm đó cũng chính là kinh nghiệm thân mật với Chúa mà tất cả cộng đoàn Dân Mới, những người đã chịu phép rửa, cũng như các Dự Tòng, muốn sống một lần nữa trong lúc lên đường chuẩn bị mừng Đại Lễ Phục sinh, và để tìm được trong đó niềm vui của tâm hồn được thanh luyện, khi thông hiệp với Đức Kitô Đấng đã hoàn tất cuộc Vượt Qua bằng cái chết và sự sống lại của mình.

Trong Mùa Chay, Dân Chúa bắt đầu một cuộc cố gắng tuy đòi hỏi nhưng đem lại sự giải thoát, đưa họ tới chỗ lắng nghe tiếng gọi của Chúa cũng như tiếng kêu của cộng đồng nhân loại. Khi họ tự cắt giảm những của ăn trần thế, dưới những hình thức khác nhau, họ sẽ học biết cách thưởng thức hơn Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể ; đồng thời cũng am hiểu hơn những nghĩa vụ của sự sẻ chia bác ái huynh đệ.

Ngày xưa, khi bước vào Mùa Chay, Hội Thánh nhấn mạnh đến những cách thế hy sinh hãm mình. Ngày nay, Hội Thánh nhắc lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa của công việc đó. Việc hy sinh hãm mình trong Mùa Chay qui hướng về Thiên Chúa , tôn vinh Người, đồng thời cũng qui hướng về tha nhân, để lưu tâm giúp đỡ, sống tình bác ái huynh đệ.

Khi ăn chay hãm mình như thế,chúng ta chứng tỏ một cách hùng hồn lòng tuân phục khiêm tốn của người môn đệ Đức Kitô đối với hai giới răn yêu mến. Bài Kinh Tiền Tụng thứ III của Mùa Chay đã tìm được lời lẽ thích hợp để nói lên điều đó như sau :

“Cha dạy chúng con là những kẻ tội lỗi phải ăn chay hãm mình, làm của lễ hy sinh đền tạ. Như vậy, chúng con vừa bớt được tính kiêu căng, vừa biết noi gương Cha từ bi nhân hậu, mà chia cơm xẻ áo cho kẻ đói nghèo…”

Đối với tất cả những ai không đóng cửa lòng lại, nhưng lắng nghe tiếng Chúa, thì ngay từ bây giờ, Hội Thánh hứa hẹn là khi đi hết độ đường trong ánh sang Đêm Thánh, “họ sẽ được tràn đầy ân sủng mà Chúa dành sẵn cho con cái thảo hiền”.

II. SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG MÙA CHAY
Khi một con người, vào lúc nào đó trong đời, bừng tỉnh dậy trước đức tin và khám phá ra Đức Kitô, nếu muốn bước vào sự hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh, họ cần được chuẩn bị và học hỏi.

Hơn nữa, không người kitô hữu nào có thể tự hào rằng vì mình đã sống lâu năm trong đức tin, nên đã biết đầy đủ về mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, và đã chuẩn bị sẵn sàng để tham dự mầu nhiệm ấy.

Do đó, chúng ta phải qua 6 tuần lễ liên tục, vượt qua chặng đường 40 ngày để chuẩn bị lễ Phục Sinh. Sáu tuần lễ chăm chú lắng nghe Lời Chúa và tăng cường tập luyện sống đức tin chính là trọng tâm ý nghĩa thiêng liêng và định hướng sống đạo của Mùa Chay thánh.

Đối với các Dự Tòng sắp lãnh nhận các bí tích gia nhập Kitô giáo vào dịp Phục sinh, thì mấy tuần lễ nầy là thời gian tối quan trọng và cần thiết. Đây chính là thời điểm mà mầu nhiệm Kitô giáo, dưới ánh sáng của Lời Chúa, được trình bày cho họ trong tất cả vẽ rực rỡ của chân lý cứu rổi, và với tất cả những đòi hỏi nghiêm túc của hành trình đức tin. Bởi vì thời gian nầy cũng chính là lúc họ phải chấp nhận đời sống trong Hội Thánh như một cuộc dấn thân đi theo Chúa Kitô và phụng sự Người.

SONG MUA CHAY THANH 2011 VOI GIAO HOI HOAN VU


Sứ điệp Mùa Chay của ĐHY Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ gửi các linh mục
G. Trần Đức Anh OP
T3, 08/03/2011 - 09:15
ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo sĩVATICAN. ĐHY Mauro Piacenza, Tổng trưởng Bộ giáo sĩ, mời gọi các LM ngày càng trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô Mục Tử nhân lành.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp ngắn gửi các LM toàn thế giới nhân dịp mùa chay, bắt đầu từ ngày 9-3-2011.

ĐHY Piacenza nhắc đến ý nghĩa mùa chay là mùa hoán cải và khẳng định rằng: ”Đối với các LM chúng ta, hoán cải trước tiên có ý nghĩa là ngày càng thích ứng đời sống của chúng ta với lời rao giảng mà hằng ngày chúng ta có dịp trình bày cho các giáo hữu, qua đó, chúng ta trở thành những ”đoạn Phúc Âm sống động” mà mọi người có thể đọc và đón nhận”.

”Căn bản cho thái độ như thế chắc chắn là sự trở về với căn tính của mình: chúng ta phải hoán cải trở thành chính bản chất LM của chúng ta! Căn tính - mà chúng ta nhận lãnh theo thể thức bí tích và được bản tính nhân loại bị tổn thương của chúng ta đón nhận,- đòi phải dần dần trở nên đồng hình dạng trong tâm trí, trong các thái độ và tất cả con người của chúng ta với hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, hình ảnh Người đã được in vào trong chúng ta theo thể thức bí tích”.

ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo sĩ cũng nhận xét rằng ”Thế giới xa lìa Kitô giáo đòi phải có một công cuộc truyền giáo mới, nhưng công cuộc này đòi phải có những LM ”mới”, không phải theo nghĩa hời hợt chạy theo thời trang phù du chóng qua, nhưng theo nghĩa đó là một tâm hồn được đổi mới sâu xa nhờ mỗi Thánh Lễ; đổi mới theo mẫu mực tình thương của Trái Tim cực thánh Chúa Giêsu, Linh Mục và Mục Tử nhân lành”.

Trong sứ điệp, ĐHY Piacenza nhấn mạnh rằng: ”Một điều đặc biệt cấp thiết là phải hoán cải từ ồn ào thành thinh lặng, từ sự miệt mài ”hoạt động” thành thái độ ”ở với Chúa Giêsu”, ngày càng tham dự một cách ý thức vào cuộc sống của Chúa. Mỗi hoạt động mục vụ phải luôn luôn là tiếng vọng và là sự biểu hiện những gì là bản chất thực sự của LM!

”Chúng ta phải trở về với tình hiệp thông, tái khám phá thực chất của nó: đó là sự hiệp thông với Thiên Chúa, với Giáo Hội, và trong đó, với anh chị em. Tình hiệp thông Giáo Hội có đặc tính cơ bản là tái ý thức chúng ta sống và rao giảng cùng một đạo lý, cùng một truyền thống, cùng lịch sử thánh thiện, và vì thế cùng một Giáo Hội. Chúng ta được mời gọi sống Mùa Chay với một cảm thức sâu xa về Giáo Hội, tái khám phá vẻ đẹp được ở trong một cuộc xuất hành của dân, bao gồm toàn thể hàng tư tế và mọi người dân của chúng ta, họ coi các vị Mục Tử của mình như một mẫu gương chắc chắn để tham chiếu và họ mong đợi chứng tá được canh tân và rạng ngời của các vị”.

”Chúng ta phải hoán cải tham dự hằng ngày vào Hy tế của Chúa Kitô trên Thánh Giá. Như Ngài đã nói và thực hiện trọn vẹn chắc năng đại diện thay thế làm cho việc cứu độ chúng ta trở nên khả dĩ và hữu hiệu, cũng vậy, mỗi linh mục, trong tư cách là Alter Christus, được mời gọi đích thân sống mầu nhiệm thay thế như thế, để phục vụ anh chị em, nhất là trong khi trung thành cử hành bí tích Hòa Giải, cho bản thân và quảng đại dâng hiến cho anh chị em, cùng với sự linh hướng, và trong sự hiến thân hằng ngày để đền tạ tội lỗi của thế giới. Các linh mục thanh thản sống như hối nhân trước Bí Tích Cực Thánh, có khả năng mang ánh sáng của sự khôn ngoan Phúc Âm và của Giáo Hội vào những hoàn cảnh ngày nay, những hoàn cảnh đang thách thức đức tin của chúng ta. Các linh mục như thế trong thực tế trở thành những ngôn sứ chân chính, có khả năng thách thức thế giới: một thứ thách đố của Tin Mừng, mời gọi hoán cải.”

ĐHY Piacenza nhận xét rằng ”Đôi khi mỏi mệt vất vả thật là nhiều và chúng ta cảm thấy mình thực là ít ỏi, so với các nhu cầu của Giáo Hội. Nhưng nếu chúng ta không hoán cải, thì chúng ta ngày càng ít ỏi hơn, vì chỉ khi nào một linh mục được đổi mới, hoán cải, ”mới mẻ” thì mới trở thành phương thế qua đó Chúa Thánh Linh kêu gọi các linh mục mới.

Trong lời kết, ĐHY mời gọi các linh mục ”phó thác hành trình mùa chay cho Mẹ Maria, Nữ Vương các Tông đồ, và khẩn cầu lòng từ bi Chúa, theo mẫu gương của Mẹ Thiên Chúa, để con tim linh mục của chúng ta cũng trở thành ”Refugium peccatorum”, nơi nương náu cho kẻ có tội”.

ĐHY Piacenza năm nay 71 tuổi (1944), người Italia, nguyên là TGM Tổng thư ký Bộ giáo sĩ từ năm 2007 và được ĐTC bổ nhiệm làm Tổng trưởng hồi tháng 10 năm ngoái và thăng Hồng Y tháng 11 sau đó. (SD 7-3-2011)

Nguồn: vietvatican

Sống Mùa Chay Thánh 2011 ! Tạ ơn Chúa.


Sống Mùa Chay 2011
T2, 07/03/2011 - 10:58
Mùa Chay là gì?


Mùa Chay là một trong 5 Mùa Phụng vụ của Hội Thánh Công giáo, gồm Mùa Thường niên, Mùa Chay, Mùa Phục sinh, Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh.

Như vậy, Mùa Chay là thời gian các Kitô hữu chuẩn bị đón Lễ Phục sinh, mừng Đức Kitô từ cõi chết sống lại.

Mùa Chay bắt đầu từ thứ tư Lễ Tro và kết thúc vào đêm thứ bảy – Lễ vọng Phục sinh.

Năm nay thứ tư Lễ Tro nhằm ngày 9 tháng Ba 2011 và Lễ vọng Phục sinh nhằm ngày thứ bảy 23 tháng Tư 2011.

Vì sao Giáo Hội thiết lập Mùa Chay?

Mùa Chay là giai đoạn chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa sống lại và nhờ đó loài người cũng được Chúa cho sống lại trong ngày sau hết.

Vì thế lễ Phục sinh chính là một khởi điểm, bắt đầu một đời sống mới.

Ngay từ xa xưa, Giáo Hội nhận thấy luôn phải chuẩn bị để bước vào sứ vụ mới, cuộc đời mới:

– Chúa đã chuẩn bị cho Dân được Chúa tuyển chọn bước vào Đất Hứa, bằng cách thanh luyện Dân trong suốt 40 năm đi trong sa mạc.
– Chúa Giêsu đã từng chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc khởi đầu cuộc đời công khai, loan báo Ơn Cứu độ đã đến, bằng việc ăn chay 40 ngày trong hoang địa.

Vì thế Giáo Hội thiết lập Mùa Chay kéo dài 40 ngày, nhằm mời gọi các tín hữu:

- Sống như Dân được tuyển chọn, trải qua 40 năm trong sa mạc, để đức Tin được củng cố.
- Theo gương Chúa Giêsu, chuẩn bị kỹ luỡng cho sứ vụ được Chúa Cha trao phó, bằng cách ăn chay 40 ngày trong hoang địa, chịu sự cám dỗ của ma quỷ và đã chiến thắng, hoàn toàn sẵn sàng cho sứ mạng lớn lao là cứu chuộc loài người.

Vậy, các Kitô hữu chuẩn bị cho việc đổi mới cuộc sống, bằng cách ăn chay, cầu nguyện, sống bác ái yêu thương trong suốt thời gian Mùa Chay 40 ngày.

Ý nghĩa ngày Thứ Tư Lễ Tro

Mùa Chay được bắt đầu với việc cử hành Phụng vụ Thứ Tư Lễ Tro.

Trong Lễ Tro, các Kitô hữu đều được nhận tro trên đầu.

Tro là hình ảnh nói lên thân phận mong manh của con người: con người yếu đuối, dễ sa ngã, phải chết…

Nhưng tro cũng là hình ảnh nói lên niềm hy vọng con người sẽ được Chúa thương xót: chính Con Chúa đã làm người, chấp nhận sống thân phận mong manh của con người. Con Chúa cũng đã chịu đau khổ, chịu chết và đã Phục sinh. Vì thế, con người hoàn toàn tin tưởng đã được Chúa thương yêu và cứu độ.

Với việc nhận tro và lời thừa tác viên nói khi xức tro: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, các tín hữu chính thức bước vào Mùa Chay.

Sống Mùa Chay như thế nào?

Mùa Chay là mùa chuẩn bị tiến đến đổi mới cuộc sống, canh tân đời sống đức Tin.

Truyền thống cử hành Mùa Chay của Giáo Hội luôn gồm ba việc: ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.

Ba việc này sẽ giúp mỗi người hoán cải bản thân, thay đổi đời sống.

Năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gửi Sứ điệp Mùa Chay 2011 cho mọi thành phần Dân Chúa, cũng đã nhấn mạnh ba việc cần thực hiện, là:

Ăn chay: “Đối với Kitô hữu, việc ăn chay giúp chúng ta mở lòng hướng đến Chúa và những nỗi khốn cùng của con người, để tình yêu đối với Thiên Chúa cũng trở thành lòng thương yêu tha nhân” (Bênêđictô XVI, Sứ điệp Mùa Chay 2011).

Cầu nguyện: “Khi cầu nguyện, chúng ta dành thời gian cho Thiên Chúa để nhận ra những lời Chúa nói “sẽ không hề qua đi” (Mc 13, 31) và bước vào sự kết hiệp mật thiết với Chúa “sẽ không ai lấy mất được” (Ga 16, 22) (Bênêđictô XVI, Sứ điệp Mùa Chay 2011).Làm việc bác ái: “Việc làm phúc giúp người nghèo đưa chúng ta trở về tin nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa và biết quan tâm đến tha nhân, đồng thời giúp chúng ta lại nhận ra được lòng nhân từ của Chúa Cha và lãnh nhận lòng thương xót của Ngài” (Bênêđictô XVI, Sứ điệp Mùa Chay 2011).

Mục đích sống Mùa Chay năm 2011
Mục đích của việc cử hành Mùa Chay năm nay được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nêu rõ trong Sứ điệp Mùa Chay 2011:

Qua việc gặp gỡ cá nhân với Đấng Cứu chuộc và qua việc ăn chay, làm phúc giúp người nghèo và cầu nguyện, cuộc hành trình hoán cải hướng đến lễ Phục sinh sẽ giúp chúng ta tái khám phá ý nghĩa của Bí tích Thánh tẩy mình đã lãnh nhận” (Bênêđictô XVI, Sứ điệp Mùa Chay 2011).
Như vậy mục tiêu cần đạt tới trong Mùa Chay năm nay là “tái khám phá ý nghĩa của Bí tích Thánh tẩy mình đã lãnh nhận”.

Ý nghĩa của Bí tích Thánh tẩy là:
– Khi được dìm trong nước Rửa tội, chúng ta cũng dìm tội lỗi vào trong cái chết của Chúa.
– Khi được xức dầu, mặc áo trắng và nhận nến Phục sinh, chúng ta chính thức bước vào đời sống mới, được sống trong sự sống của Đấng Phục sinh: hoàn toàn thuộc về Chúa và yêu thương mọi người.
Nguồn: WHĐ