Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2010

RIP : Requiestcat In Pace = May He (She, you,..) rest in Peace !


Giáo phận Phan Thiết thương tiếc 2 Linh mục vừa qua đời

PHAN THIẾT - Chỉ cách nhau hai ngày mà Giáo phận Phan Thiết có hai linh mục qua đời. Nhận được Cáo Phó của Toà Giám Mục Phan Thiết ai cũng bất ngờ, kinh ngạc.

Ngày 20.1 cho biết LM Phêrô Nguyễn hữu Nhường, chánh xứ Hiệp Đức, đã qua đời lúc 8g45sáng ngày 20/01/2010 tại Giáo xứ Hiệp Đức.
Ngày 22.1 lại được tin LM Phêrô Trần Minh Trương, chánh xứ Hòa Vinh, đã qua đời lúc 01g45 sáng ngày 22/01/2010 tại bệnh viện Phan Thiết.


Cha Phêrô Nhường ra đi thật đột ngột. Ngài đang ngồi tại văn phòng giáo xứ làm sổ sách danh bộ với Thầy xứ thì buông bút, gục đầu. Cha Phó và Thầy xứ đưa ngài vào giường nằm, chỉ ít phút sau ngài về với Chúa không một lời nhắn gửi.

Cha Phêrô Trương gần một tháng dưỡng bệnh rồi nhẹ nhàng về với Chúa.

Khởi đầu mùa xuân đã có tiếng khóc cho kẻ ra đi người ở lại. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết trong bài “Một cõi đi về”:

Vừa tàn mùa xuân rồi vào mùa hạ
Rọi xuống trăm năm một cõi đi về
Mây che trên đầu và nắng trên vai
Đôi chân ta đi sông còn ở lại
Còn tình yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hình bóng con người.


Hai linh mục Phêrô đã khởi đầu hành trình mới,một cõi đi về. Những người thân thương như thấy đâu đây hình bóng của hai ngài vẫn còn hiện hữu. Hình bóng lung linh như ánh sáng những ngọn nến soi toả vào ký ức những kỷ niệm nhập nhoà. Mới đây cha dâng lễ, cha nói chuyện, mới hôm qua, hôm kia… thế mà …

Con người có sinh có tử. Đó là luật Đấng Tạo Hoá đã an bài. không ai biết được mình sẽ ra đi vào ngày giờ tháng năm nào và ở đâu. Con người không chọn và không định được ngày giờ ra đi. Chưa ai có kinh nghiệm bản thân về sự chết,dẫu đã nhiều lần chứng kiến sự ra đi của nhiều người thì cũng vẫn là người ngoài cuộc.Chứng kiến chưa phải là kinh nghiệm. Sự chết là một huyền nhiệm,con người không thể hiểu và chia sẽ với người khác.Trong sự chết con người hoàn toàn cô đơn, nó không hẹn ngày,không chỉ giờ cho ai cả,nó không ấn định năm tháng và cũng chẳng đếm xỉa gì đến tuổi tác, nó đến bất ngờ làm chúng ta kinh ngạc.Sự sống và sự chết là hai thái cực đối chọi nhau.Thiên Chúa đã sinh ra sự sống nhưng tội lỗi đã khởi phát ra sự chết.Sự sống và sự chết đều là kỳ công của Tạo Hoá.Con người không thể làm ra được sự sống cũng không tài nào cản ngăn được sự chết.

Đức Kitô đã vào trần gian trong thân phận con người. Người đã kinh qua khổ đau kiếp người. Bằng cái chết thập giá và sự phục sinh, Người đã tiêu diệt nguồn gốc sự chết,đem lại cho con người một cái nhìn,một quan niệm mới mẻ và đầy hy vọng. ( Ep,5; Col 2,12. 3,1; Rm 4,25; 5,9; 6,9 -11; 7,4 ).Cái chết của Chúa Kitô đã trở nên của lễ hiến dâng trọn vẹn, một lễ hy sinh tuyệt hảo.Tất cả sự đắng cay chua xót, tất cả sự âu lo phiền muộn của sự chết đã trở thành phẩm vật tặng hiến cao quý và giờ chết trở thành giờ chiến thắng,giờ khởi điểm của hạnh phúc trường sinh. Trong Kinh Tin Kính người Kitô hữu tuyên xưng “ tôi trông đợi kẻ chết sống lại …”. Đó là niềm hy vọng Kitô giáo vì tin vào lời Đức Giêsu: “Thầy là sự sống lại và là sự sống,ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống,ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ phải chết” ( Ga 11,25-26; 1 Ga 3,14). Sự sống thay đổi chớ không mất đi. Với một niềm hy vọng và tin tưởng như thế, Giáo phận, đặc biệt hai giáo xứ Hiệp Đức và Hòa Vinh cũng như mỗi người trong tang quyến sẽ vơi bớt khổ đau,sẽ được an ủi đỡ nâng …

Cái chết như một huyền nhiệm,như nhịp cầu đưa người hai linh mục ra đi về Nhà Cha,nơi yên nghĩ muôn đời,một cõi đi về đợi ngày tái ngộ trong Cõi vĩnh hằng,một giai đoạn kết thúc thời kỳ hành hương để bước vào bến bờ mong đợi. Xin thắp một nén hương và một lời kinh nguyện cầu với tin yêu hy vọng vào Đấng Phục Sinh. Xin hiệp dâng thánh lễ và tiễn đưa hai ngài đến nghĩa trang linh mục Giáo phận.

Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, 84 tuổi, đã qua đời tại nhà nghỉ của Ngài trong sự thanh thản và bình an, vào lúc 9 giờ 37 phút ( giờ Rôma) đêm Thứ Bảy ngày 2/04/2005, tức vào lúc 2 giờ 37 phút sáng Chúa Nhật 3/04/2005 (giờ Việt Nam), kết thúc 26 năm, 5 tháng và 17 ngày trong cương vị Đại Diện Chúa Kitô trên trần thế.

Trước khi giã từ cuộc sống trần thế, trên giường bệnh Đức Giáo Hoàng đã thì thào với vị thư ký riêng: “Cha đang vui mừng, ước gì các con cũng vậy.” Ước mong, lời trăn trối này là “một di chúc” dành cho tất cả mọi tín hữu trên toàn thế giới.

Một cuộc sống hiến dâng phục vụ được tưởng thưởng bằng một cái chết bình yên. Với sự tiễn đưa ấm áp của Đức Giám Mục giáo phận, linh mục đoàn, tu sĩ nam nữ, những người thân yêu, cùng với sự đón nhận cũng ấm áp của đất trời...hai linh mục Phêrô thật sự vui mừng về với Thiên Chúa tình yêu.

Chính trong khát vọng về với Thiên Chúa, cội nguồn sự sống mà thi sĩ Tagore đã dâng lời kinh tha thiết:

Như đàn hạc hoài hương
Bay thẳng về tổ ấm
Trên đỉnh núi vút cao
Qua vùng trời thăm thẳm
Lên tận chốn huyền siêu. (Gitanjali 103,4).

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tim hieu Lich Su Giao Xu-Linh muc Quan Xu trong Giao su Cong Giao.


Năm Linh Mục: Tìm hiểu Linh mục Quản xứ và Giáo xứ theo Lịch sử Giáo-Hội (cho đến Công Đồng Vatican II)

Giáo xứ được phát sinh từ lòng Giáo Hội, từ lịch sử Giáo Hội.

Linh mục Quản xứ hãy lần theo ánh sáng của lịch sử Giáo Hội để tìm hiểu giáo xứ, hầu hướng dẫn giáo xứ theo đức tin của Giáo Hội.

Từ Giáo Hội sơ khai đến Hòa Bình Constantinô (năm 313)

Các Tông Đồ được lệnh Chúa Giêsu truyền phải đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân thiên hạ, rửa tội họ và dạy họ biết các điều Ngài truyền (x. Mt 18,19-20).

Trong khi đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, các Tông Đồ thành lập những Giáo Hội địa phương, rồi đặt tay và truyền chức cho những kẻ kế vị để họ điều khiển Giáo Hội tại chỗ.

Tân Ước gọi những kẻ điều khiển Giáo Hội địa phương nầy, là những Vị Trưởng Lão "Seniores” (x. Cv 18,4) hay "Presbyteri” (x. Tt 1,5), hoặc là những Đấng Coi sóc: "Episcopi” (x. 1 Tm 3,2 ). Các Vị Trưởng Lão và các Đấng Coi Sóc lập thành một Hội Đồng Các Trưởng lão "Presbyterium” (x. 1 Tm 4,14) để điều khiển mục vụ tại các địa phương.

Trong Hội đồng Các Trưởng Lão nầy, một Episcopus chủ tọa và điều khiển.

Lần lần, những Episcopi được phân biệt với những Presbyteri, và sau đó, những Episcopi được xem như những kẻ kế vị các Tông Đồ, có quyền điều khiển các Giáo Hội địa phương.

Vào thời Giáo Hội sơ khai, chúng ta thấy có hai loại Giáo Hội địa phương, một loại theo kiểu thánh Phaolô, một loại theo kiểu thánh Gioan.

Thánh Phaolô thành lập những cộng đoàn trong những thành phố lớn. Những cộng đoàn nầy được giao phó cho các vị Trưởng lão hoặc những đấng Coi sóc, nhưng trong thực tế, chính thánh Phaolô, khi còn sống, là vị lãnh đạo duy nhất của những cộng đoàn nầy vì ngài vẫn điều khiển những cộng đoàn nầy từ xa bằng những bức thư mục vụ. Chỉ khi thánh Phaolô qua đời, các Giáo Hội địa phương nầy mới thực sự được những kẻ kế vị ngài điều khiển, như trường hợp Timôthê ở Êphêsô (x. 1 Tm 1,3), Titô ở Crêta (x. Tt 1,5).

Còn Giáo Hội địa phương theo kiểu thánh Gioan thì được đề cập đến trong sách Khải-Huyền (x. Kh I-III). Những Giáo Hội địa phương nầy có ranh giới rõ rệt, trong một thành phố nhất định, do một Đấng Coi sóc điều khiển, với sự cộng tác của Hội Đồng Trưởng Lão và các phó tế.

Hai hệ thống Giáo Hội địa phương trên đây, kiểu thánh Phaolô và kiểu thánh Gioan, đã sớm hội nhập lại với nhau để trở thành những Giáo Hội địa phương có Đức Giám Mục (Đấng Coi sóc) của một thành phố lớn làm đầu và canh chừng đức tin trong toàn miền. Và cùng với thời gian, các Giáo Hội địa phương do các Đức Giám Mục điều khiển, được chia ra thành những cộng đoàn nhỏ khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê, có một hay nhiều linh mục cai quản dưới sự điều khiển của các Đức Giám Mục ở thành phố.

Ngay từ đầu tiên trong Giáo Hội, những ai chấp nhận Lời Chúa, đều được rửa tội. Nhưng từ thế kỷ thứ hai, những tân tòng phải học giáo lý và tập sống đạo trong vòng hai hoặc ba năm. Phép Rửa Tội được cử hành hai lần trong năm, vào dịp lễ Phục Sinh và Lễ Hiện Xuống. Chính Đức Giám Mục đứng ra rửa tội trọng thể, còn các linh mục chỉ được ban phép Rửa Tội trong những trường hợp cần thiết.

Thánh Lễ Tạ Ơn (Eucharistia), bữa ăn cộng đoàn và kỷ niệm sự Tử-nạn Phục-Sinh của Chúa Giêsu Kitô, được cử hành vào ban tối, sau buổi ăn thân mật, agapê. Nhưng về sau, vào đầu thế kỷ thứ hai, để tránh những khó khăn và bất tiện, Thánh Lễ Tạ Ơn được cử hành vào buổi sáng sớm. Một phần của Thánh Thể, gọi là Fermentum, được đưa từ nhà thờ có cử hành Thánh Lễ đến các nhà thờ nhỏ xung quanh.

Phép Giải Tội, cho đến thế kỷ IV, chỉ được ban cho những tội nhân thú tội công khai trước mặt Đức Giám Mục, linh mục và cộng đoàn giáo dân.

Phép Hôn Phối chỉ được cử hành khi có sự chấp thuận rõ ràng của Đức Giám Mục.

Như vậy, chúng ta thấy trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo-Hội, giáo xứ được thành hình lần lần. Trong thời kỳ nầy, vì tình hình Bắt Đạo, nên mục vụ được chú trọng vào việc rao giảng Lời Chúa hơn là việc nhấn mạnh đến các Bí Tích. Dù vậy, các giáo dân vẫn tìm đủ mọi cách để tham dự Thánh Lễ Tạ Ơn một cách rất anh dũng và sốt sắng.

Từ Hòa Bình Constantinô (năm 313) đến thế kỷ VII, khởi đầu thời Trung-Cổ

Chiếu chỉ Constantinô (năm 313) thay đổi hoàn cảnh của Giáo Hội, chấm dứt bách hại và đem lại thanh bình.

Tín hữu lúc bấy giờ hãnh diện vì thấy Giáo Hội được tự do và Nước Chúa được mở rộng klhắp nơi trong đế quốc Rôma. Chính trong thế kỷ nầy (vào đầu thế kỷ V), chúng ta thấy xuất hiện bài Tán Tụng ca Tạ Ơn Thiên Chúa (Te Deum) với câu: “Giáo Hội thánh tung hô ngợi khen Thiên Chúa trên khắp địa cầu” (Te per orbem terrarum sancta confitetur Ecclesia).

Trong cảnh thanh bình nầy, Giáo Hội hăng say rao giảng Lời Chúa. Một nền văn chương kitô hữu xuất hiện. Nhiều Công Đồng đào sâu các tín lý.

Đây là thời kỳ vàng son của các Giáo Phụ.

Các Giáo Phụ chú trọng đặc biệt việc rao giảng Lời Chúa cho mọi người, nhất là việc dạy giáo lý cho các tân tòng.

Các Giáo Phụ còn chủ trương phải dạy giáo lý suốt đời cho người kitô-hữu vì người kitô-hữu nào cũng phải suốt đời là một người tân tòng, nghĩa là một người phải luôn luôn học giáo lý, một người không bao giờ ngưng học giáo lý.

Vì con số giáo hữu càng ngày càng đông, nên Đức Giám Mục phải ban thêm nhiều quyền hành cho các linh mục. Vì thế, mục vụ và phụng vụ trong các làng quê, trong các thành phố nhỏ, đều do các linh mục thi hành, dưới sự điều khiển của Đức Giám Mục tại thành phố lớn.

Tại nơi mình cai quản, linh mục cũng có một presbyterium như presbyterium của Đức Giám Mục, nhưng chỉ gồm các phó tế, các phụ phó-tế, các thầy đọc sách, giữ cửa,v.v...

Nhà thờ ở vùng quê, trong thời kỳ nầy, được gọi là "parochia”, mà sau nầy, chúng ta dịch là "giáo xứ”. Như vậy, hệ thống giáo xứ bắt đầu từ các vùng quê mà có.

Trong lúc hệ thống giáo xứ được thành hình, những nhiệm vụ của Đức Giám Mục và của các linh mục được Giáo Hội nêu lên rõ ràng: Đức Giám Mục thì có quyền triệu tập các công đồng địa phương, đi thăm viếng mục vụ các giáo xứ trong giáo phận; linh mục thì có bổn phận phải giảng dạy Lời Chúa, giảng dạy giáo lý, ban phép Rửa Tội, thăm viếng bệnh nhân, cử hành lễ nghi an táng, ban phép Giải Tội dưới hình thức tư, ngoại trừ những dịp có nghi thức thống hối công khai. Và từ thế kỷ V, đã thấy có những quyết định của Giáo Hội trong việc phân định rõ ràng giới hạn các giáo xứ.

Trong thời kỳ nầy, xảy ra hai tệ nạn trong Giáo-Hội: tệ nạn thuế thập phân (dime) và tệ nạn các lãnh chúa (seigneurs) xây cất "những nhà thờ riêng” trong lãnh hạt mình.

Thuế thập phân là thuế mà dân chúng phải nộp một phần mười hoa lợi của mình cho Chính-Quyền và cho Giáo-Quyền.

Các lãnh chúa xây dựng nhiều "nhà thờ riêng” (ecclesiae propriae) là cốt để thu lợi thuế thập phân nầy, vì những nhà thờ kiểu nầy thì được hưởng những quyền lợi như những giáo xứ.

Vì những lạm dụng nầy, sự sống đạo và truyền đạo lúc bấy giờ trong Giáo Hội nói chung, trong giáo phận và trong giáo xứ nói riêng, bị sa sút, bởi lẽ ý niệm lợi lộc đã làm xóa mờ lý tưởng tông đồ phục vụ.

Các Công Đồng thế kỷ VII lên tiếng phản đối những sự lạm dụng nầy, nhưng vẫn bất lực trước sự lấn áp của các lãnh chúa và các nhà thế tộc. Những hạng người nầy thi đua lập các nhà thờ riêng để hưởng lợi, vì có nhà thờ riêng, thì họ được dân chúng nộp thuế thập phân, được các nhà giàu tặng tài sản hoặc trối lại các cơ nghiệp dưới tiêu đề rất hay: "pro remedio animae” (xin cho các linh hồn được ăn năn trở lại / Xin cho các linh hồn được chóng lên thiên đàng).

Từ thời Trung-Cổ ( tk VIII ) đến Phong Trào Thệ-Phản ( tk XVI )

Đây là thời kỳ mà Chính Quyền phần đời can thiệp sâu vào nội bộ của Giáo Hội, và Giáo Hội cũng dấn mình sâu vào các việc chính trị, xã hội.

Đây cũng là thời kỳ nứt rạn trong Giáo Hội: Giáo Hội bên Đông và Giáo Hội Rôma tách rời nhau năm 1054.

Trong thời kỳ nầy, có sáu tệ nạn trong Giáo-Hội.

Tệ nạn thứ nhứt, là các Đức Giám Mục quan liêu. Vì sống trong thời kỳ phong kiến và tiêm nhiễm tinh thần phong kiến, nên những quan hệ giữa Đức Giám Mục và linh mục thường giống như quan hệ giữa vị lãnh chúa với các chư hầu của mình.

Tệ nạn thứ hai, là linh mục bị phân hóa và mất lý tưởng. Hàng linh mục bị chia ra làm hai: hạng thượng-giáo-sĩ và hạng hạ-giáo-sĩ. Hạng thượng-giáo-sĩ được chọn trong các gia đình thế tộc giàu sang, còn hạng hạ-giáo-sĩ thuộc về những gia đình nghèo khó, vô danh. Linh mục rất dễ bị mất lý tưởng vì chức linh mục được xem như một món lợi, vì việc thi hành chức vụ linh mục nầy là dịp để kiếm tiền, thu lợi, nhận quà.

Tệ nạn thứ ba, là tu sĩ lung tung. Trong thời kỳ nầy, ảnh hưởng của các tu sĩ rất mạnh, đến đỗi có lúc Đức Giám Mục phải được lựa chọn trong giới tu sĩ mà thôi. Có những dòng tu chú trọng đến sự tìm lợi lộc vật chất và tìm cách điều khiển các giáo xứ để hưởng lợi.

Tệ nạn thứ tư, là giáo dân lộng quyền. Quyền lực của các vị lãnh chúa rất mạnh. Họ tìm cách gây ảnh hưởng và sức ép lên các Đức Giám Mục, các linh mục, các giáo xứ, các tài sản của Giáo Hội bằng cách phong vương tước cho các Đức Giám Mục, cho các linh mục, bằng cách thành lập các giáo xứ, bằng cách điều khiển các cơ sở của Giáo-Hội, và tìm đủ cách để đem tài sản và đất đai của Giáo Hội về cho mình bằng biện pháp tục hóa.

Tệ nạn thứ năm, là con cha cháu ông. Con cháu của Đức Giáo Hoàng, của Đức Giám Mục, của hàng thượng-giáo-sĩ thường được đặc biệt nâng đỡ và cất nhắc lên các chức vụ trong Giáo-Hội, mặc dù có số trường hợp thiếu khả năng.

Tệ nạn thứ sáu, là mại thánh (buôn bán của thánh, buôn bán vật thánh, lạm dụng nơi thánh, lạm dụng chức thánh,.. ...)

Cũng còn có nhiều nguy cơ khác đang rình chực Giáo Hội lúc bấy giờ: nguy cơ của cách làm việc của "Giáo triều Rôma” (Curialisme), nguy cơ của sự độc tài của hàng giáo sĩ (cléricalisme), nguy cơ của một nền thần học bất ổn, nguy cơ của sự sa sút trong tinh thần tôn giáo, nguy cơ của phong trào Nhân bản tìm cách hướng sự chú tâm đến những gì thuộc về con người hơn là chú tâm đến những gì thuộc về Thiên Chúa.

Đứng trước những nguy cơ đang đe dọa trầm trọng Giáo Hội lúc bấy giờ, có những Đức Giám Mục, những linh mục, những tu sĩ không ý thức được tình trạng nầy, nhất là có những linh mục và tu sĩ thường dành thời giờ tranh luận với nhau xem các lợi lộc vật chất thu được trong giáo xứ sẽ thuộc về tay ai? Dầu vậy, trong thời kỳ nầy, công cuộc truyền giáo vẫn tiến mạnh, nhất là hướng về các dân tộc Germanes.

Thời kỳ nầy đã có nhiều giáo xứ, và danh từ parochia được dùng rõ ràng. Giáo xứ do một linh mục quản xứ điều khiển. Linh mục nầy được gọi là "Presbyter”. "Presbyter” nầy có bổn phận "cura animarum” (lo săn sóc các linh hồn của đoàn chiên), vì thế, mới có danh từ "curatus”, "curé”, linh mục quản xứ, cha sở. Và dĩ nhiên là giáo xứ có nhà thờ riêng, có của cải và đất đai riêng, có bất động sản riêng, có các của và đồ vật người ta dâng cúng, có các nhà thờ phụ và có thu lợi thuế thập phân.

Từ Thệ Phản ( tk XVI ) đến Thế kỷ XVIII

Năm 1517, tu sĩ Martin Luther khởi xướng một cuộc cách mạng trong Giáo Hội, mở đường cho sự sống đạo cá nhân, chống lại tính cách khách quan của các tín điều, bác bỏ nền phụng vụ bí tích và không chấp nhận quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng. Nhưng thay vì cải tổ và canh tân Giáo Hội, Thệ Phản lại làm cho Giáo Hội bị chia rẽ và gây nên sự chống đối giữa Thệ Phản và Công Giáo trong nhiều thế kỷ.

Trong thời kỳ nầy, nổi bật là Công-Đồng TRENTO (1545-1563). Những quyết định của Công Đồng nầy trong việc cải tổ Giáo Hội, đem lại nhiều ích lợi cho việc mục vụ trong Giáo Hội.

Theo Công Đồng Trento, Đức Giám Mục là chủ chăn trên hết của giáo phận. Ngài là linh hồn của công cuộc mục vụ trong Giáo Hội. Chính ngài phải giảng dạy đức tin cho đoàn chiên của mình trong giáo phận. Ngài phải làm sao cho mọi giáo xứ trong giáo phận mình được nghe Lời Chúa, vì thế, ngài phải năng đi thăm mục vụ các giáo xứ để ban Lời Chúa. Ngài phải hết sức lo lắng đào tạo hàng giáo sĩ và phải lập các chủng viện để làm cơ sở cho công cuộc đào tạo nầy.

Theo Công Đồng Trento, Linh mục Quản xứ phải ở tại giáo xứ mình, phải rao giảng Lời Chúa, phải dạy giáo lý, không được tìm cách thu góp các lợi lộc vật chất. Trước mặt Đức Giám Mục, Linh mục Quản xứ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về công cuộc mục vụ của mình trong giáo xứ.

Theo Công Đồng Trentô, giáo xứ phải có biên giới rõ rệt, và không được quá rộng để Linh mục Quản xứ có thể chu toàn các việc bổn phận mục vụ của mình. Trường hợp Linh mục Quản xứ không kham nổi, Đức Giám Mục phải sai linh mục phụ tá đến giúp. Mỗi giáo xứ phải làm sao có một nhà thờ xứng đáng.

Công Đồng Trento muốn có những quan hệ tốt đẹp giưa hàng giáo sĩ với các Dòng Tu, vì thế, khuyên các Đức Giám Mục hãy chấp nhận sự cộng tác của các Dòng Tu, biết ơn những hoạt động hy sinh của họ, và nhất là biết sử dụng họ trong việc đào tạo hàng giáo sĩ. Nhưng Công Đồng nhấn mạnh các Dòng Tu phải luôn luôn hoạt động dưới sự điều khiển của Đấng Bản Quyền.

Những cải tổ của Công Đồng Trento đem lại nhiều ích lợi cho giáo xứ: danh từ "giáo xứ”, "parochia” được dùng một cách rõ rệt và có tính cách pháp lý; trong các hoạt động mục vụ của Linh mục Quản xứ, lý tưởng lo cho phần rỗi các linh hồn (salus animarum) được thay thế cho ý tưởng trục lợi và hưởng lợi.

Tuy vậy, vì bị ảnh hưởng của Thệ Phản chủ trương chỉ chấp nhận Lời Chúa, nên mục vụ lúc bấy giờ có xu hướng nhấn mạnh về Phụng Vụ Bí Tích hơn là việc học hỏi Lời Chúa trong Thánh Kinh.

Thế kỷ XVIII

Thế kỷ XVIII được gọi là thế kỷ Ánh Sáng, chủ trương phân biệt đức tin với lý trí, tôn giáo với văn hóa.

Bị ảnh hưởng của Phong trào Ánh sáng nầy, trong Giáo Hội cũng có xu hướng ít chú trọng đến giáo lý mặc khải, và chú tâm nhiều vào các môn đời như khoa học, kinh tế, luân lý, pháp luật. Trong hàng ngũ giáo sĩ, cũng có nhiều vị thích nghiên cứu văn hóa hơn là thích việc học hỏi Thần học. Linh mục lúc bấy giờ cũng được xem như là một kẻ đem lại phúc lợi bên ngoài cho con người.

Trong thế kỷ XVIII nầy, vì các quốc gia tiếp tục lấn lướt Giáo Hội, nên giáo xứ cũng bị lệ thuộc vào ranh giới do các quốc gia định đoạt, cũng như của cải và tài sản trong giáo xứ bị tục hóa.

Dầu vậy, trong thời kỳ nầy, vấn đề giáo lý vẫn được xúc tiến mạnh mẽ. Đức Giám Mục cũng tha thiết vấn đề giáo lý và phổ biến chương trình giáo lý của mình trong giáo phận. Các linh mục cũng chú trọng đến việc dạy giáo lý, nhưng phần nhiều nhấn mạnh đến luân lý phải giữ hơn là những điều phải tin.

Thế kỷ XIX

Trong thế kỷ XIX thì nổi bật vấn đề kỷ-nghệ-hóa. Vấn đề kỷ-nghệ-hóa lôi cuốn nhiều người thợ thuyền ra khỏi giáo xứ, gây nhiều khó khăn cho vấn đề mục vụ trong giáo xứ. Người ta nhận thấy giáo xứ thiếu tinh thần cộng đoàn; sự sống đạo thiên về cá nhân chủ nghĩa và chú trọng đến lợi lộc vật chất; tiền bạc chi phối Phụng Vụ trong việc cử hành các Bí Tích trọng thể bên ngoài; trong Phụng Vụ, lo giữ "chữ đỏ” cho thật khít khao, hơn là để ý đến tinh thần cầu nguyện; sự giảng dạy Lời Chúa được nhấn mạnh nhiều về mặt luân lý; ít ân cần học hỏi Lời Chúa vì xem Thánh Kinh như một cuốn sách nguy hiểm cho đức tin; mục vụ giáo xứ ít được đề cập đến.

Thế kỷ XX

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các Đức Giáo Hoàng, từ Đức Giáo Hoàng Lêô XIII trở đi, chú ý nhiều đến mục vụ trong hoàn cảnh hiện tại của xã hội. Đặc biệt là Đức Giáo Hoàng Piô X. Ngài cải tổ mục vụ rất hiệu quả: ngài cho nghiên cứu một Bộ Giáo Luật để áp dụng cho Giáo Hội toàn cầu; ngài tổ chức lại giáo triều Rôma, tổ chức lại các chủng viện và các môn thần học; ngài ra lệnh cho các Linh mục Quản xứ phải dạy giáo lý; ngài cải tổ sách Thần vụ, chấn hưng lại nền âm nhạc thánh, nhấn mạnh về phép Thánh Thể là trung tâm điểm của đời sống Giáo-Hội, vì thế, cho phép năng lên rước Chúa Giêsu Thánh Thể và cho phép các em nhỏ được sớm đến dự Bàn Tiệc Thánh.

Đức Giáo Hoàng Bênêditô XV tiếp tục công cuộc cải tổ của Đức Giáo Hoàng Piô X. Năm 1917, ngài cho công bố Bộ Giáo Luật trong đó, giáo xứ và Linh mục Quản xứ được đề cập đến rõ ràng.

Năm 1922, Đức Giáo Hoàng Piô XI lập ra Phong trào Tông đồ Giáo dân, khuyến khích sự cộng tác của giáo dân với hàng Giáo phẩm trong việc truyền giáo, và Phong trào Tông đồ giáo dân nầy đã làm cho các giáo xứ hoạt động sôi nổi.

Từ khi lên ngôi năm 1939 cho đến lúc qua đời, Đức Giáo Hoàng Piô XII rất ưa chuộng đề tài giáo xứ. Vì thế, trong những quyết định quan trọng về linh mục, về Phụng Vụ, ngài luôn luôn nhấn mạnh về "tinh thần giáo xứ ” mà Linh mục Quản xứ và giáo dân phải có, đó là tinh thần phải luôn luôn chú trọng đến Lời Chúa và phải cử hành các Bí Tích làm sao cho có hiệu quả thiêng liêng dồi dào.

Rút kinh nghiệm từ lịch sử Giáo-Hội

Kinh nghiệm thứ nhứt.

Vấn đề giáo xứ là vấn đề của đức tin. Nhìn vào dòng lịch sử dài của Giáo Hội, chúng ta có thể thấy nhiều bóng tối, nhưng đức tin vẫn luôn luôn làm cho Giáo Hội rạng rỡ và giáo xứ rực rỡ.

Lịch sử Giáo-Hội, trong bất cứ thời kỳ nào, cũng chói chang những gương sáng mục vụ: các bổn đạo đầu tiên luôn hiên ngang, cùng với các chủ chăn của mình, sống đức tin mạnh mẽ giữa muôn vàn khó khăn nguy hiểm; các Giáo Phụ luôn chuyên chăm rao giảng Lời Chúa và đêm ngày dạy giáo lý; khi lâm nguy, Giáo-Hội luôn được Chúa cứu vớt bằng cách cho xuất hiện những vị Thánh, những Công Đồng, những Dòng Tu đắc lực.

Kinh nghiệm thứ hai.

Vấn đề giáo xứ là vấn đề của cấp lãnh đạo. Talis pastor, qualis fideles! Chủ chăn thế nào, con chiên thế đó! Kinh nghiệm tu đức mục vụ về linh mục quản xứ nhận xét (Saint John Mary Vianey priest): chủ chăn tầm thường (về mặt đạo đức), thì giáo xứ thấp kém (về mặt đạo đức); chủ chăn đạo đức, thì giáo xứ tầm thường (về mặt đạo đức); chỉ khi nào chủ chăn thánh thiện, thì giáo xứ mới đạo đức.
Linh mục thánh thiện nói chung, và Linh mục Quản xứ thánh thiện nói riêng, là đặc biệt cần thiết cho sự sống còn của Giáo Hội, cho sự sống còn của giáo xứ, và cần thiết cho sự vươn lên và sống mạnh của Dân Chúa.Lúc bấy giờ, đầu thế kỷ XVI, nhà quý tộc cai quản miền Alcantara, Tây Ban Nha, hỏi thánh Phêrô Alcantara phương pháp làm sao để cho giáo xứ khỏi bị tràn ngập bởi những làn sóng vô đạo và sa đọa. Thánh nhân thản nhiên trả lời: "Phương pháp thật là đơn sơ, đó là ông với tôi, cả hai chúng ta hãy trở nên những vị thánh. ”
Nhiều vị cao cấp trong Giáo Hội, nhiều vị danh tiếng phần đời, nhiều nhà thế tộc giàu sang, nhiều kẻ thông thái, và nhất là nhiều người cùng khổ, dốt nát, tội lỗi, không ai bảo ai, đều chạy đến tìm gặp một Linh mục Quản xứ nghèo, thất học, sống heo hút trong một giáo xứ xa xôi của giáo phận Lyon, chỉ vì linh mục nầy, cha Gioan Maria Vianê, trổi vượt bởi sự thánh thiện, cầu nguyện và hy sinh. Một tối kia, theo lời nhà viết sử Trochu kể, - nhà viết sử nầy chuyên nghiên cứu cuộc đời của cha sở Gioan Maria Vianê - ma quỷ hét lên trong phòng ngủ của vị linh mục nầy: "Mi đã ăn cắp của tao đến tám vạn linh hồn rồi. Nếu có bốn linh mục như mi, thì nước tao ở trần gian nầy sẽ bị tiêu diệt nhanh chóng! ”
Với Công Đồng Vatican II (1962-1965), với Bộ Giáo luật mới (1983), với Thượng Hội đồng Giám Mục bàn về Giáo dân (1987), toàn thể Giáo-Hội, từ hàng Giáo phẩm đến giáo dân, hiện nay luôn tìm đủ mọi cách để biến đổi giáo xứ thành một nơi đức tin mạnh mẽ, để sự sống đạo của giáo xứ được sốt sắng, để sự truyền đạo của giáo xứ được hăng say, hầu thực hiện lời nguyện tha thiết của Chúa Giêsu Cứu Thế:

Hãy làm sao cho "Danh Cha cả sáng!”
Hãy làm sao cho “Nước Cha trị đến!”
LM Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang

HIEP THONG va CAU NGUYEN cho nhau !






Thế giới
Thứ Sáu, 22/01/2010, 16:41 (GMT+7)

Bão lớn ập vào California

TTO - Cơn bão thứ tư trong vòng một tuần qua đổ bộ vào khu vực miền nam bang California (Mỹ) đang gây ngập lụt tại nhiều nơi, trong đó có thành phố Los Angeles.
Một người đàn ông chèo chiếc thuyền phao trên đại lộ Bennett ở Long Beach - Ảnh: AP


BBC cho biết mưa lớn kéo dài hàng giờ, những con sóng cao tới 7,6 m đã phá hủy các bờ biển ở California, và gây ngập lụt nặng tại nhiều con đường.

Chiều qua 21-1, các nhân viên nhà nước đã đi đến từng nhà ở Los Angeles để kêu gọi người dân di tản.

Lở đất tại vùng La Canada Flintridge - Ảnh: Getty Images
AP đưa tin một số con đường cao tốc ở California đã bị tắc nghẽn do bị bão và lốc xoáy tàn phá. Gió mạnh khiến nhiều sân bay phải tạm hủy hàng chục chuyến bay. Bão tố đã để lại vệt tàn phá dọc cộng đồng vùng tây bắc Los Angeles.


Dòng xe chạy trên xa lộ Long Beach Freeway ngập nước - Ảnh: Getty Images

AP cho biết ở quận Cam, lính cứu hỏa đã cứu thoát một cậu bé 14 tuổi bị trôi trên sông Santa Ana, tuy nhiên không tìm thấy người bạn của cậu cũng mắc nạn trên sông. Ở khu Newman, hai người bị chết do cây đổ, và cảnh sát vẫn đang tìm kiếm thi thể một người đàn ông mắc nạn khi cố lái xe qua một con đường ngập nước. Ở San Jose, một người đàn ông thiệt mạng trong một vụ tai nạn trên đường cao tốc trơn trượt do mưa to. Ở San Diego, cảnh sát kịp cứu ba người bị trôi trên sông.


Mưa lớn khiến các con đường ở La Jolla, California ngập nước - Ảnh: Reuters

Lốc xoáy đã phá hủy nhiều hệ thống đường dây điện, đẩy 30.000 người lâm vào cảnh mất điện, trong đó có 4.100 người ở Los Angeles. Sở cứu hỏa Los Angeles cũng cảnh báo lở đất, lũ quét cũng có thể đe dọa sinh mạng của người dân sống ở các khu sườn đồi phía bắc Los Angeles.

“Với những người sống trong các khu vực có nguy cơ, nhiều khả năng chúng tôi không thể tiếp cận với họ”, AP dẫn lời ông John Tripp thuộc Sở cứu hỏa Los Angeles. Dù vậy, phần lớn người dân đã di tản theo đề nghị của chính quyền.

Sóng lớn đánh vào bãi biển Ocean Beach - Ảnh: Reuters


HIẾU TRUNG

Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2010

Hay hoc cung Ta, vi Ta hien lanh va khiem nhuong trong long - Loi Thay Giesu Kito




Cậu Giêsu, học sinh trường Nazaret, đem học bạ về nhà.
Thật tình mà nói, kết quả không mấy tốt.
Mẹ cậu biết thế nhưng không nói gì, bà chỉ ghi nhớ mọi sự trong lòng mà suy
đi nghĩ lại. Nhưng điều gay go nhất bây giờ là phải trình học bạ này cho ông Giu-se.


Người gửi: Trường Simêôn tạiNazaret
> Ngưòi nhận: Ông Bà Giuse và Maria

> Nội dung: Học bạ của Giêsu

Toán học: Hầu như chẳng làm được
bài toán nào,ngoại trừ nhân bánh và cá lên nhiều lần.
Không biết làm toán cộng: cậu khẳng định
rằng mình cộng với Cha thành một.

Tập Viết: Không bao giờ mang tập vở bút viết
đến lớp, đành phải viết trên cát.

Địa Lý: Không có khái niệm về phương
hướng. Cậu khẳng định rằng chỉ có mỗi
một con đường để về nhà Cha thôi.

Hóa Học: Không chịu làm các bài tập
thí nghiệm gì cả, nhưng có lần Cậu đã làm cho
nước hóa ra rượu nho khiến người ta cự nự nhau trong đám cưới.

Thể Dục: Thay vì học bơi như mọi người,
lại ngang nhiên biểu diễn đi trên nước.

Văn Học: Khó có thể nói năng rõ ràng,
nói gì cũng bằng dụ ngôn.

Vấn Đáp: Mới 12 tuổi mà Cậu đã đối đáp
với các luật sĩ và kinh sư trong đền thờ khiến họ hết sức ngạc nhiên.

Kỷ Luật: Đã đánh mất mọi thứ đồ đạc,
rồi tuyên bố xoành xoạch rằng mình chẳng có được một viên đá gối đầu!

> Hạnh Kiểm: Có khuynh hướng thích giao du trò
> chuyện với kẻ lạ, bọn nghèo, hạ cấp và cánh phụ nữ trắc nết.
>
> Vệ Sinh: Nhổ xuống đất hòa thành bùn rồi
> bôi lên mắt người ta tức thì họ được sáng mắt.

> Sinh Vật: Dám quả quyết người ta sống không nguyên bởi bánh
nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

> Thiên Văn: Là người duy nhất đã thấy Xa-tan
> như một tia chớp từ trời sa xuống.

> Kinh Doanh: Những người được mướn từ sáng sớm
> cậu trả cho họ một quan tiền, và những người
> cậu mướn vào xế chiều cậu cũng trả một quan
> tiền.Chưa hết, bà góa bỏ một xu vào nhà
> thờ, cậu nói bà ta bỏ nhiều nhất.

> Tâm Lý: Cậu nói đừng sợ những kẻ giết
> thân xác mà không giết được linh hồn.
> Đúng hơn, hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả
> hồn lẫn xác trong hoả ngục.

> Lịch Sử: Cậu sẽ xây Hội Thánh của Cậu,
> và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi vì Cậu đã thắng thế gian.

Đọc xong học bạ, ông Giu-se tự nhủ
> rằng tình trạng này không được kéo dài thêm,
> mà cần phải có biện pháp cứng rắn: “Này,
> Giêsu, đã như vậy thì kỳ Phục Sinh này con
> đành phải vác thánh giá
> thôi!”
>


> ************ ********* *********
> *******

> Vậy Ngài đã bảo gì với Cha mình ?


> Ối trời, Cha Giuse ơi, ngày xưa, con học hành khá
> hơn nhiều đó chứ! Thế mà giờ lũ trẻ cứ
> phiên phiến ra như thế! Con chỉ còn một
> viên đá gối đầu thật, nhưng đâu phải là con
> vứt đi các vật dụng, mà là con cho nhà hàng xóm
> đó chứ.
>
> Khi Mẹ Maria may cho con áo mới mặc vào mùa
> xuân. Con thích lắm, nhưng sáng nay, con đi
> dạo chơi quanh làng, thấy cậu bé ở cuối xóm,
> mặc bộ quần áo rách bươm, con nghĩ đồ
> đạc của con còn nhiều, tốt hơn của bạn
> ấy, thế nên, về nhà, con gói ghém và tặng bạn
> ấy. Lần trước, đôi dép mới Cha cho con
> cũng thế. Cha thường dạy, chia sẻ như thế
> là rất tốt phải không Cha?
>
> Con không bao giờ phân biệt kẻ nghèo, người
> giàu. Con thích giao tiếp với những người
> bị khinh bỉ, bỏ rơi.
>
> Nhiều người nghĩ con là người điên, nhưng cha
> biết con rất tỉnh táo, phải không cha? Và
> cha vui vì điều đó. Cha luôn dạy con phải
> biết yêu thương mà.
>
> Bây giờ con buồn ngủ rồi, chúc Cha ngủ
> ngon. Ngày mai, con sẽ nói
> tiếp cho các bạn ấy hiểu, con đã học hành
> như thế nào, cha nhỉ!

>
> Mong rằng học bạ của mỗi người chúng ta, có
> những phần như vậy.
> (Sưu tầm)

Thứ Năm, 21 tháng 1, 2010

Cac con hay NEN THANH vi CHUA chung ta LA DANG THANH !


19/01/2010 10.54.49



BÉ NHỎ NGHÈO NÀN VÀ THÁNH NỮ TIẾN SĨ HỘI THÁNH








Năm 1997 kỷ niệm 100 năm sinh nhật trên trời của thánh nữ Teresa Hài Đồng GIÊSU (1873-1897). Năm kỷ niệm đạt đỉnh cao với biến cố Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) tôn phong vị nữ tu Dòng Kín khiêm hạ và trẻ trung lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh, trong Thánh Lễ trọng thể vào Chúa Nhật 19-10-1997 tại quảng trường thánh Phêrô..

Trước đó, nhiều nơi trên thế giới tổ chức các buổi học hỏi về cuộc đời và về sứ điệp của vị nữ thánh. Chẳng hạn bên nước Argentina, thuộc Châu Mỹ Latinh nơi giáo xứ Lanuse, Linh Mục Luis - Cha Sở họ đạo - tổ chức cuộc rước kiệu bức tượng nữ thánh qua các con đường của khu phố nghèo nàn nhất. Vừa đi, đoàn tín hữu rước kiệu vừa hát thánh ca và lần hạt Mân Côi. Sau

buổi rước tất cả các thanh thiếu niên của giáo xứ tập họp lại lãnh phép lành của Cha Sở trước khi giải tán. Sau đó, để đánh dấu một ngày lễ vui của giáo xứ, các em được uống sôcôla nóng và ăn bánh ngọt. Nhưng điều đáng nói nhất là cử chỉ yêu thương trìu mến của Cha Luis đối với các trẻ em nghèo. Cha giơ tay ban phép lành cho từng em, ghé tai nói nhỏ với mỗi em vài lời. Rồi Cha ôm hôn từng em một với trọn tình yêu thương của một người Cha đối với con cái.

Trên trời cao, hẳn Chị thánh Teresa Hài Đồng GIÊSU vui mừng trước khung cảnh cảm động này. Lúc sinh thời Chị thánh rất yêu thương các trẻ em. Phép lạ đầu tiên Chị thánh cầu bầu trước tòa THIÊN CHÚA là chữa lành một em bé 3 tuổi bị câm điếc.

... Tại hai quần đảo Wallis và Futuna bên nước Polynésie thuộc Đại-dương-châu, trong khung cảnh kỷ niệm 100 năm thánh nữ Teresa Hài Đồng GIÊSU qua đời, có nhiều cuộc hội thảo bàn tròn về ”con đường thơ ấu thiêng liêng” của thánh nữ. Một cặp vợ chồng Công Giáo cũng tham dự các cuộc hội thảo này. Đây là cặp vợ chồng gặp không biết bao nhiêu khó khăn trong đời sống gia đình. Trước hết, họ son sẻ không con cái. Rồi lại bị đau bệnh liên miên và nhiều vấn đề khác. Nhưng nhờ các buổi học hỏi về đời sống thiêng liêng của thánh nữ Teresa họ bắt đầu chấp nhận các thử thách trong niềm tin tưởng phi thường.

Cuộc gặp gỡ tinh thần với thánh nữ Teresa Hài Đồng GIÊSU như một luồng sáng huy hoàng chiếu dọi vào một tổ ấm phủ đầy bóng tối, chán nản vì đau khổ. Từ đó, người vợ thay đổi hẳn thái độ. Trong môi trường làm việc, chị can đảm nói về thánh nữ Teresa cho các bạn đồng nghiệp. Rồi hai vợ chồng quyết định đi hành hương Lisieux, viếng thăm các nơi từng ghi dấu các vết chân thánh nữ. Cuộc hành hương như mang theo tất cả tâm tình của người dân thuộc hai quần đảo Wallis và Futuna hết lòng mộ mến thánh nữ Teresa thành Lisieux.

... Tại Hoa Kỳ, nơi Tổng Giáo phận New York có một giáo xứ mang tên Áo Đức Bà và thánh Stephano. Giáo xứ do các Cha dòng Cát-Minh coi sóc từ năm 1990. Đây là giáo xứ cổ xưa có từ 150 năm nay. Ngôi thánh đường có lối xây cất tuyệt đẹp, do đại kiến trúc sư gốc Ý tên Costantino Brumidi (1805-1880) thực hiện. Vào thời kỳ đó, người dân vùng này âu yếm gọi kiến trúc sư Brumidi là Buonarrotti MichelAngelo (1475-1564) đệ nhị.

Các Cha dòng Cát-Minh chu đáo chuẩn bị mừng lễ thánh nữ Teresa Hài Đồng GIÊSU vào ngày 1-10-1997 thật long trọng. Chuẩn bị bằng các bài giảng các buổi tĩnh tâm và nhất là kêu mời mọi người sốt sắng, chẳng những tham dự Thánh Lễ các Chúa Nhật mà cả ngày thường khi hoàn cảnh cho phép. Lời kêu gọi được toàn thể giáo dân trong giáo xứ nhiệt liệt hưởng ứng. Khi đến chính ngày 1-10 bức tượng thánh nữ Teresa Hài Đồng GIÊSU đặt trước bàn thờ được trang hoàng toàn bằng hoa hồng với ba màu sắc: vàng, trắng và đỏ, trông tuyệt đẹp. Sau Thánh Lễ, các cánh hoa hồng được phân phát cho mọi người có mặt trong nhà thờ. Thật là một ngày lễ huy hoàng không phải bằng hình ảnh lộng lẫy bề ngoài cho bằng các ân lành Chị thánh Teresa Hài Đồng GIÊSU cầu bầu trước tòa THIÊN CHÚA tuôn đổ xuống cộng đoàn giáo xứ. Muôn vàn ghi ơn Chị Thánh!

... ”Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào THIÊN CHÚA, và có THIÊN CHÚA làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái. Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được? Ta là THIÊN CHÚA, Ta dò xét lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tùy theo cách nó sống và việc nó làm. Con chim quốc ấp trứng nó không đẻ, kẻ làm giàu bất chính nào có khác chi: nửa cuộc đời, nó phải bỏ giàu sang, và rốt cuộc, cũng chỉ là một đứa ngu đần” (Giêrêmia 17,7-11).

(”Dans le SILLON missionnaire”, 1+2+3/1998, trang 15-18)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Xin cho HO NEN MOT !


20/01/2010 17.27.56



Tuy có các vấn đề mới, phong trào đối thoại đại kết đã đạt nhiều tiến bộ.




Trong 50 năm qua cuộc đối thoại đại kết đã đạt nhiều tiến bộ. Có những vấn đề cũ đã mất đi trọng lượng của chúng, nhưng cũng có các vấn đề và các khó khăn mới nảy sinh. Vì thế cần phải luôn kiên trì cầu nguyện để được Chúa thanh tẩy khiến cho chúng ta có khả năng hiệp nhất với nhau.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trước 8.000 tín hữu tham dự buổi gẵp gỡ chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 20-1-2010.

Vì đang trong tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu kitô trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã đề cập tới đề tài này. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:
Anh chị em thân mến, chúng ta đang ở trong Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu kitô, một sáng kiến đại kết đã được cấu trúc từ hơn một thế kỷ qua và hàng năm lôi kéo sự chú ý về một đề tài, là sự hiệp nhất hữu hình giữa các kitô hữu, lôi cuốn lương tâm và khích lệ dấn thân của những người tin nơi Chúa Kitô. Nó được thực thi trước hết với lời mời cầu nguyện, noi gương Chúa Giêsu xin Thiên Chúa cha cho các môn đệ Người được hiệp nhất: ”Xin cho chúng nên một để thế giới tin” (Ga 17,21). Việc nhắc nhở kiên trì cầu nguyện cho sự hiệp thông trọn vẹn giữa các người theo Chúa diễn tả hướng đi đích thực và sâu thẳm của toàn phong trào đại kết... Ngoài nỗ lực phát triển các tương quan huynh đệ và thăng tiến đối thoại để minh xác và giải quyết các khác biệt gây chia rẽ giữa các Giáo Hội và các cộng đoàn giáo hội, cần phải cùng nhau tin tưởng khẩn cầu Chúa.

Đức Thánh Cha đã nhắc tới đề tài cho Tuần cầu nguyện năm nay là một câu trong chương 24 Phúc Âm thánh Luca: ”Các con là chứng nhân của tất cả mọi điều ấy”. Chương 24 trình thuật kinh nghiệm gặp gỡ của các môn đệ với Chúa Kitô tử nạn và phục sinh cũng như sứ mệnh làm chứng mà Ngài giao cho họ. Vì thế ”tất cả những điều ấy” trước hết ám chỉ Thập Giá và sự Sống Lại, ám chỉ mầu nhiệm của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, chết, sống lại, sống luôn mãi và bảo đảm cho cuộc sống vĩnh cữu của chúng ta. Khi biết Chúa Kitô là chúng ta biết Thiên Chúa, vì Chúa Kitô là mạc khải của Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha khẳng định rằng con người thuộc mọi thời đại đều nhận thức được sự hiện diện của Thiên Chúa, một vì Thiên Chúa duy nhất nhưng xa vời và không tự tỏ hiện. Nhưng nơi Chúa Kitô Thiên Chúa đã tự tỏ hiện và trở thành gần gũi với con người. Ngài lôi kéo mọi người tới với Ngài và hiệp nhất toàn nhân loại trong thực tại của cuộc sống bất tử.

Nhưng chúng ta có thể làm chứng cho tất cả những điều ấy như thế nào? Chúng ta chỉ có thể là các chứng nhân, khi biết Chúa Kitô và biết Chúa Kitô cũng là biết Thiên Chúa. Việc hiểu biết Chúa Kitô chắc chắn bao gồm một chiều kích trí thức, nhưng nhất là một tiến trình hiện sinh, một tiến trình rộng mở cái tôi, tiến trình của việc biến đổi do sự hiện diện và sức mạnh của Chúa Kitô; và như thế nó cũng là một tiến trình rộng mở cho tất cả mọi người khác, là thân mình của Chúa Kitô. Như vậy hiểu biết Chúa Kitô cũng là một tiến trình biến chúng ta trở thành chứng nhân. Nói cách khác, chúng ta chỉ có thể là chứng nhân của Chúa Kitô, nếu có kinh nghiệm gặp gỡ riêng tư với Chúa. Giáo Hội đã quy tụ và tóm tắt điều chính yếu mà Chúa đã ban cho trong Mặc Khải, nơi Kinh tin Kính niceno costantinopolitano, là kết qủa của hai Công Đồng Chung (325 và 381). Giáo Lý xác định rằng Kinh tin Kính này ”cho tới nay là chung cho tất cả các Giáo Hội lớn của Đông Phương và Tây Phương (CCC, s.195). Trong Kinh Tin Kinh ấy có các chân lý đức tin mà kitô hữu có thể cùng nhau tuyên xưng và làm chứng để thế giới tin, bằng cách biểu lộ ý muốn tiến bước về sự hiệp thông trọn vẹn, sự hiệp nhất của Thần Mình Chúa Kitô, với ước muốn dấn thân thắng vượt các khác biệt hiện có.

Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu kitô cũng giúp nhìn lại các khía cạnh quan trọng đối với phong trào đại kết. Trước hết là sự tiến bộ lớn đã đạt được trong các tương quan giữa các Giáo Hội và các cộng đoàn giáo hội sau Hội nghị triệu tập tại Edimburg bên Ecốt cách đây một thế kỷ, trong các ngày 13 tới 24 tháng 6 năm 1910. Trong số các đề tài được thảo luận hồi đó có các khó khăn khách quan trong việc loan báo Tin Mừng khi các kitô hữu còn chia rẽ nhau. Phong trào đại kết đã phát triển và trở thành yếu tố quan trọng trong cuộc sống Giáo Hội. Nó không chỉ tạo thuận lợi cho các tương quan huynh đệ giữa các Giáo Hội và Cộng đoàn giáo hội trong việc đáp trả lại giới răn yêu thương, mà còn khích lệ việc tìm hiểu thần học nữa. Ngoài ra nó cũng lôi cuốn cuộc sống cụ thể của các Giáo Hội và cộng đoàn giáo hội liên quan tới mục vụ và cuộc sống bí tích như việc thừa nhận bítích Rửa Tôi của nhau, các vấn đề hôn nhân hỗn hợp vv... cũng như giúp nới rộng các tương quan với các phong trào pentecostal, tin lành và đặc sủng thánh linh để hiểu biết nhau nhiều hơn.

Đề cập tới phần đóng góp của của Giáo Hội Công Giáo cho phong trào đại kết Đức Thánh Cha nói: Từ Công Đồng Chung Vaticăng II trở đi, Giáo Hội công giáo đã bước vào các tương quan huynh để với tất cả các Giáo Hội Đông Phương và các Cộng đoàn giáo hội Tây Phương, đặc biệt bằng cách cùng với đa số các Giáo Hội và Cộng đoàn đó tổ chức các cuộc đối thoại thần học song phương, giúp tìm các tương đồng và đồng thuận trong nhiều điểm cũng như đào sâu các mối dây của sự hiệp thông. Với các Giáo Hội Chính Thống Ủy ban đối thoại thần học hỗn hơp đã nhóm họp khóa XI tại Paphos trên đảo Chypre hồi tháng 10 năm 2009 về một đề tài nòng cốt: ”Vai trò của GM Roma trong sự hiệp thông của Giáo Hội trong ngàn năm thứ nhất”, tức khi các kitô hữu Đông Phương và Tây Phương sống sự hiệp nhất tràn đầy với nhau. Với các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương khác như Copte, Etiopi, Siri, Armeni Ủy ban hỗn hợp đã nhóm họp trong các ngày từ 26 tới 30 tháng giêng năm ngoái.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Cũng vào năm ngoái Giáo Hội Công Giáo đã cùng với các Cộng đoàn giáo hội Tây Phương duyệt xét các thành qủa đã đạt được trong các cuộc đối thoại kéo dài 40 năm qua, đặc biệt với Cộng đoàn Anh giáo, Liên hiệp Luther thế giới, Liên Minh cải cách thế giới và Hội Methodist thế giới. Hội Đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu kitô đã thực hiện một nghiên cứu liệt kê các điểm tương đồng giúp đối thoại song phương, đồng thời cũng liệt kê các vấn đề còn bỏ ngỏ cần thảo luận trong tương lai.

Đức Thánh Cha đã nhắc tới một vài biến cố gần đây như Tuyên ngôn chung về giáo lý sự công chính hóa giữa Công Giáo và Luther ngày 31 tháng 10 năm 2009 để khích lệ việc tiếp tục đối thoại; chuyến viếng thăm của Đức Tổng Giám Mục Canterbury Rowan Williams và tình hình của Cộng đoàn Anh giáo. Tuy có các vấn đề đối chọi giữa hai bên nhưng dấn thân chung tiếp tục các tương quan và đối thoại là một dấu chỉ tích cực. Trong cuộc đối thoại đại kết có chiều kích trách nhiệm của các tín hữu kitô phải làm tất cả những gì có thể để đạt sự hiệp nhất, nhưng cũng có chiều kích thiên linh, vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sự hiệp nhất cho Giáo Hội. Các kết qủa thực tế đã đạt được là do sự cộng tác và tình huynh đệ của 50 năm đối thoại đại kết. Nhưng công việc đại kết không phải là một tiến trình theo đường thẳng. Có các vấn đề cũ trong bối cảnh của thời đại khác mất đi trọng lượng của chúng, nhưng cũng có nhiều vấn đề và khó khăn mới nảy sinh. Vì thế phải luôn luôn sẵn sàng đối với tiến trình thanh tẩy để Chúa khiến cho chúng ta có khả năng hiệp nhất với nhau. Đức Thánh Cha xin mọi người tiếp tục cầu nguyện nhiều cho cuộc đối thoại đại kết và ơn hiệp nhất các tín hữu kitô.

Chào các bạn trẻ người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha khuyến khích diễn tả lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất bằng các cử chỉ cụ thể, hoạt động cho hòa bình và hòa giải, dâng khổ đau cầu nguyện cho sự hiệp thông giữa các tín hữu kitô và sống ơn gọi gia đình trong sự tâm đầu ý hợp.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha cho mọi người.


Linh Tiến Khải

Chi mot DUC TIN - mot PHEP RUA - mot THIEN CHUA LA CHA !


19/01/2010 16.46.53



Tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các tín hữu Kitô 2010


Một số nhận định của Linh Mục Gino Battaglia, Giám đốc văn phòng đối thoại đại kết và liên tôn của Hội Đồng Giám Mục Italia, về tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu 2010

Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô đã bắt đầu ngày 18-1-2010 và kéo dài cho tới ngày 25-1-2010 rồi kết thúc với buổi hát Kinh Chiều trọng thể do Đức Thánh Cha Biển Đức XVI chủ sự tại đền thờ thánh Phaolô ngoại thành ở Roma. Đề tài của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô năm nay là ”Chính các con là chứng nhân về tất cả những điều đó...” (Lc 24,48). Đề tài đã do các Kitô hữu Ecốt chọn và tài liệu cho tuần hiệp nhất cũng do các anh chị em Ecốt soạn thảo. Chương 24 Phúc Âm thánh Luca được suy tư trong suốt tuần với các tựa đề: cử hành Đấng đã trao ban cho chúng ta ơn sự sống và sự phục sinh; biết chia sẻ cho người khác lịch sử đức tin của mình; ý thức rằng Thiên Chúa hoạt động trong cuộc sống chúng ta; tạ ơn Chúa về gia tài đức tin đã nhận lãnh; tuyên xưng Chúa Kitô Đấng chiến thắng mọi khổ đau; tìm luôn trung thành với Lời Chúa; trưởng thành trong đức tin đức cậy và đức mến; cống hiến sự tiếp đón và biết tiếp nhận sự tiếp đón.

Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô đã được cử hành lần đầu tiên trong các ngày từ 18 tới 25 tháng giêng năm 1908 do sáng kiến của mục sư Paul Wattson thuộc Giáo Hội Episcopal Hoa Kỳ. Vì tổ chức tuần cầu nguyện với mục đích xin cho các Giáo Hội khác trở về với Giáo Hội Công Giáo Roma, mục sư Wattson đã chọn ngày 18 tháng giêng lễ kính ngai tòa thánh Phêrô, và ngày 25 tháng giêng lễ thánh Phaolô trở lại. Mục sư Wattson là người đồng sáng lập Hiệp Hội Đền Tạ gồm các tu huynh và nữ tu đền tạ tại Graymont, New York. Năm 1909 sau khi Hiệp hội này gia nhập Giáo Hội công giáo, Đức Giáo Hoàng Pio X đã chính thức chúc lành cho Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất.

Các tuần cầu nguyện cho hiệp nhất sau đó được nhiều phong trào của các Giáo Hội Kitô nhấn mạnh, trong đó có phong trào Oxford Liên Minh Tin Lành Thế Giới với các sáng kiến cầu nguyện cho nữ giới. Vào năm 1935 viện phụ Paul Couturier bên Pháp đã đưa ra hướng đi mới cho tuần cầu nguyện, bắt đầu được phổ biến trong Giáo Hội công giáo và trong một số các cộng đoàn Anh giáo có thiện cảm với Đức Giáo Hoàng, Giám Mục Roma. Cha Couturier giữ các ngày 18 tới 25 tháng giêng, nhưng đổi tên thành ”Tuần cầu nguyện đại đồng cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô”, trong nghĩa hiệp nhất như ý Chúa muốn.

Sáu mươi năm sau, tức năm 1968, Ủy ban Đức Tin và Hiến Chế của Hội Đồng Đại Kết các các Giáo Hội Kitô và văn phòng Hội Đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô cùng soan thảo tài liệu cho tuần cử hành và gửi cho các Giáo Hội và giáo xứ trên toàn thế giới.

Năm nay cũng là địp kỷ niệm 100 năm hội nghị truyền giáo quốc tế lần đầu tiên nhóm tại Edimburg bên Êcốt. Hồi năm 1910 hội nghị đã quy tụ 1.200 đại biểu thuộc các Giáo Hội Tin Lành hầu hết đến từ Anh quốc và Hoa Kỳ. Tuy thiếu các đại biểu công giáo và chính thống nhưng sáng kiến này đã có tầm quan trọng rất lớn vì nó được coi như biến cố làm nảy sinh ra phong trào đại kết. Chính trong tinh thần ấy năm 1948 đã nảy sinh ra Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô có trụ sở tại Genève bên Thụy Sĩ và hiện nay quy tụ 349 Giáo Hội thuộc 110 quốc gia trên thế giới.

Trong các ngày 2-6 tháng 6 năm nay 2010 các Giáo Hội Kitô Ecốt sẽ tổ chức một Đại hội quốc tế truyền giáo khác để mừng kỷ niệm 100 năm Hội nghị truyền giáo quốc tế Edimburg. Lần này sẽ có sự tham dự của phái đoàn công giáo và của Hội Đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô cũng như phái đoàn đại biểu của Giáo Hội chính thống và Pentecostal. Ngoài việc suy tư về công tác loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay, còn có các đề tài như tinh thần tu đức truyền giáo, ý nghĩa của việc truyền giáo Kitô giữa các tôn giáo khác, tương quan giữa truyền giáo và quyền bính...

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Linh Mục Gino Battaglia, Giám đốc văn phòng đối thoại đại kết và liên tôn của Hội Đồng Giám Mục Italia, về tuần cầu nguyện này.

Hỏi: Thưa cha Bataglia, đâu là đặc thái chính của tuần cầu nguyện cho hiệp nhất năm 2010?
Đáp: Năm nay kỷ niệm 100 năm đại hội quốc tế truyền giáo triệu tập tại Edimburg bên Ecốt năm 1910. Đại hội này đã được coi như biến cố khai mào cho phong trào đại kết hiện đại. Vào tháng 6 năm 1910 đã có hơn 1.000 đại biểu của các Giáo Hội Tin Lành, Anh giáo và 1 đại biểu Chính Thống tham dự đại hội để cùng nhau suy tư về sự cần thiết phải đạt sự hiệp nhất giữa các tín hữu Kitô để có thể loan báo Tin Mừng cho thế giới một cách hữu hiệu hơn. Và sự đòi hỏi này ngày càng cấp thiết hơn nữa, đặc biệt sau một thế kỷ của phong trào đại kết.

Hỏi: Một trăm năm đã trôi qua, đã có thay đổi nào thưa cha?
Đáp: Ngày nay chúng ta ngày càng ý thức hơn về mối dây nối kết cuộc đối thoại giữa các Giáo Hội Kitô và việc rao truyền Tin Mừng. Như thế tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô năm nay được linh hứng từ mối dây nối kết ấy. Tính cách đáng tin cậy của việc thông truyền Tin Mừng thật ra bị hao mòn bởi sự chia rẽ giữa các Kitô hữu.

Hỏi: Cha nhận thấy hiện tình cuộc đối thoại đại kết ra sao?
Đáp: Tôi đồng ý với Đức Hồng Y Walter Kasper, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, khi ngài nói rằng cuộc đối thoại đã đem lại các hoa trái phong phú, tuy nhiên cũng phải thực tế thừa nhận rằng chúng ta chưa đạt tới đích điểm của cuộc hành hương đại kết. Chúng ta còn đang ở trong giai đoạn nửa chừng, cả khi không thiếu các dấu hiệu khích lệ.

Hỏi: Chẳng hạn như dấu hiệu nào thưa cha?
Đáp: Có việc tìm kiếm sự hiệp nhất liên quan tới các đề tài đòi hỏi một sự hiện diện của các tín hữu Kitô trong xã hội. Chẳng hạn Tòa Thượng Phụ Costantinopoli rất gần gũi với các lập trường của Giáo Hội công giáo liên quan tới việc bảo vệ thụ tạo thiên nhiên và môi sinh; trong khi Tòa Thượng Phụ chính thống Matscơva thì nhấn mạnh trên hiện tượng xã hội Tây âu đánh mất đi căn tính Kitô của mình, vì thế cần phải có chứng tá chung xác tín hơn đối với các giá trị và các kiểu sống của tín hữu Kitô. Thế rồi với các Giáo Hội cổ xưa của Đông Phương đã có các tuyên ngôn chung giải tỏa các nghi ngờ lạc giáo. Trái lại các khác biệt với thế giới tin lành thì rõ ràng hơn, bởi vì có vài lập trường trong lãnh vực luân lý vẫn còn xa cách nhau.

Hỏi: Trên đây là tình hình chung của cuộc đối thoại đai kết. Riêng tại Italia này thì hiện tình ra sao thưa cha Battaglia?
Đáp: Hội nghị đại kết mà chúng tôi đã cử hành hồi tháng 5 năm 2009 tại Siracusa nam Italia, với sự tham dự của đại biểu mọi Giáo Hội Kitô hiện diện tại Italia và đại biểu của các Giáo Hội Tin Lành, có thể được coi như là một bản đồ nhỏ cho biết bầu khí đại kết hiện nay rất là thoải mái. Có một cuộc đối thoại của sự thật với các thời điểm và cung cách cũng như các trụ sở của nó, nhưng cũng có một cuộc đối thoại của tình bác ái và tình bạn chạy nhanh hơn. Chẳng hạn tại Siracusa chúng tôi đã kiểm thực sự tương đồng giữa các đề tài dấn thân trong xã hội, di cư, cuộc chiến đấu chống nghèo đói, công lý, các quyền con người, môi sinh, vai trò của nữ giới. Cần phải tiếp tục con đường này.

Hỏi: Vấn đề di cư có hệ lụy tới cuộc đối thoại đại kết như thế nào thưa cha?

Đáp: Đây là một cơ may rất lớn để gia tăng đại kết tình bạn. Do sự kiện nhiều anh chị em di cư là tín hữu chính thống Rumani hay Nga, vài giáo phận Italia đã sẵn sàng dành ra một nhà thờ để cho các anh chị em này có thể cử hành và tham dự các lễ nghi phụng vụ. Sự kiện này không thể không có các âm hưởng tích cực cả trên giới lãnh đạo các Giáo Hội Kitô.

Hỏi: Theo cha, đâu là cách cử hành tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô một cách hữu hiệu nhất?
Đáp: Xem ra điều tôi nói thừa thãi, nhưng thật ra cầu nguyện là cách thức hữu hiệu nhất để cử hành Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô. Cầu nguyện là điều đầu tiên phải làm. Rồi chắc chắn việc đồng hành với lời cầu nguyện bằng các cứ chỉ của tình bạn và sự gặp gỡ là điều hữu ích, nhưng luôn luôn phải bắt đầu bằng lời cầu nguyện.

(Avvenire 17-1-2010)
Linh Tiến Khải